Aug 17, 2017

Việt Nam cô đơn và lạc trong một thế giới bất an và bất định

Nguyễn Quang Dy
“Chỉ có những kẻ khôn ngoan nhất và ngu xuẩn nhất là không thể thay đổi” (It is only the wisest and the stupidest that cannot change). (Confucius, 551-479 BC)
Có thể nói ngay (mà chưa cần phân tích) là Việt Nam cô đơn và lạc trong một trật tự thế giới mới bất an và bất định, của một thế giới “không phẳng” (xin lỗi Tom Friedman). Nhiều nước cũng khốn đốn (như Venezuela) chứ không riêng Việt Nam. Nhưng Việt Nam đang trong một tình thế hiểm nghèo (vì Trung Quốc đè) và có đặc thù riêng cần làm rõ. Chủ nghĩa “đặc thù” (exceptionalism) và “tiệm tiến” (Gradualism) cùng với chủ nghĩa “cực đoan” (extremism) và “giáo điều” (dogmatism), chính là những rào cản trước đòi hỏi đổi mới và tiến bộ. Sau nhiều năm cố gắng đổi mới và hội nhập với thành quả đáng kể, Việt Nam đang tụt hậu so với láng giềng. Tuy có nhiều tài nguyên và nguồn nhân lực, nhưng đất nước đang kiệt quệ về tài chính và phụ thuộc vào Trung Quốc. Tuy hô khẩu hiệu “làm bạn với tất cả”, nhưng Viêt Nam vẫn “thân cô thế cô” (Bill Hayton), bị bắt nạt nhưng không có đồng minh bênh vực. Trong khi sa vào “bẫy thu nhập trung bình”, Việt Nam vẫn chưa chịu thay đổi thể chế. 
Trật tự thế giới mới  

Năm 2016 được đánh dấu bởi hiện tượng “Brexitism” (tại Anh) và Trumpism (tại Mỹ). Đó là một xu thế mới tạo ra một bước ngoặt lịch sử, và mở ra một thời kỳ mới, không chỉ đối với Anh mà cả Cộng đồng Châu Âu, không chỉ đối với Mỹ mà cả thế giới. Toàn cầu hóa đang bị thách thức bởi chủ nghĩa dân tộc đang trỗi dậy, các giá trị và thành quả của nó đang bị phản bác. Tự do thương mại bị thay thế bởi chủ nghĩa biệt lập (như America First). Các giá trị dân chủ tự do (liberal democracy) bị thách thức, và nhân quyền bị coi nhẹ. Trật tự thế giới đang thay đổi như một số học giả đã từng cảnh báo trong cuốn “The End of History” (Francis Fukuyama) hay “The End of Power” (Moises Naim). Tuy có nhiều cách lý giải khác nhau, nhưng hầu hết đều nhất trí là trật tự thế giới mới bất an và bất định, thậm chí “vô chính phủ” (Robert Kaplan, “Eurasia’s Coming Anarchy”, Foreign Affairs, February 15, 2016).

Trong khi phương Tây và Mỹ đi xuống (falling), thì phương Đông đi lên (rising) với sự trỗi dậy đầy ấn tượng của Trung Quốc. NATO và EU phân hóa do tác động của Brexitism & Trumpism. Sau khi Anh rút khỏi EU, Pháp cũng lao đao, còn Đức phải suy nghĩ lại về an ninh của mình. Trong khi đó, Trung Quốc tranh thủ cơ hội, thách thức Mỹ và trật tự thế giới do Mỹ cầm đầu, với “Giấc mộng Trung hoa” (China Dream) và bàn cờ lớn “Một Vành đai, Một Con đường” (One belt, One road). Hiện nay, bán đảo Triều Tiên, Biển Hoa Đông, và Biển Đông đã trở thành những điểm nóng như “thùng thuốc súng” (powder kegs). Trước sự trỗi dậy đầy thách thức của Trung Quốc và sự rút lui của Mỹ, Nhật buộc phải tự lo cho an ninh của mình bằng cách sửa đổi  Hiến pháp (điều 9) để có thể tái vũ trang. Đây là một thay đổi rất lớn trong bức tranh địa chính trị Đông Á, có thể làm thay đổi cục diện chiến lược tại khu vực. 
Trong bối cảnh đó, nhiều nước phải điều chỉnh thể chế và chính sách để thích ứng với môi trường và trật tự thế giới mới. Nhưng với nhiều người, thay đổi tư duy “đặc thù” là việc không hề dễ. Người ta vẫn hành xử như “thời chiến tranh lạnh”, ngộ nhận về quyền lực và vị thế của mình, mà không lường được hệ quả. Sự ngạo mạn và ngộ nhận quyền lực không đúng lúc, đúng chỗ, sẽ dẫn đến tai họa. Vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh là một ví dụ.
Mỹ có thể cử biệt đội SEAL xâm nhập Pakistan để tìm diệt Osama Bin Laden (2/5/2011), và Trung Quốc cũng có thể cử các biệt đội “Săn Cáo” (Fox Hunt) sang Mỹ và các nước khác để săn lùng các quan chức tham nhũng của họ đang lẩn trốn. Nhưng Việt Nam không phải là Mỹ hay Trung Quốc. Mình phải tự biết mình là ai và đang ở đâu. Lúc này, Việt Nam đang trong một tình thế đầy hiểm nghèo, cả về kinh tế lẫn chủ quyền Biển Đông. Trong một quan hệ bất đối xứng (asymmetric) các nước nhỏ hơn và yếu hơn càng phải thao lược. Nói cách khác, đừng nên quá sợ Trung Quốc, nhưng cũng đừng nên coi thường Đức, là đối tác chiến lược quan trọng nhất trong số các nước EU (nhất là sau khi Mỹ rút khỏi TPP).  
Theo các chuyên gia, Trung Quốc đã ứng dụng “Tam chủng Chiến pháp” (Three Warfares doctrine) bao gồm “chiến tranh tâm lý” (psywar), “chiến tranh pháp lý” (lawfare), và chiến tranh truyền thông (media warfare), để đạt được mục tiêu chiến lược. Theo binh pháp Tôn Tử, thượng sách là “thắng mà không cần đánh” (winning without fighting). Trung Quốc quen dọa nạt và bắt nạt (bluffing and bullying) các nước láng giềng tại Biển Đông, cũng như tại Doklam (nơi đang diễn ra xung đột giữa Trung Quốc với Ấn Độ và Bhutan). (Brahma Chellaney, “Calling the Chinese bully’s bluff”, Project Syndicate, August 8, 2017).
Việt Nam đi về đâu   
Trong giai đoạn đổi mới lần thứ nhất (từ 1986), đặc biệt là sau khủng hoảng tài chính Châu Á (từ 1997), khi kinh tế một số nước bị đình trệ thì Việt Nam nổi lên như “con hổ mới” ở Châu Á. Nhưng đáng tiếc là chưa đầy 10 năm dưới thời thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (2006-2016), kinh tế Việt Nam chưa kịp cất cánh thì đã lụn bại. “Con hổ mới” đã biến thành “con mèo hoang”.  Các nhóm lợi ích thân hữu đã lợi dụng thể chế độc quyền độc đảng để lũng đoạn và tham nhũng, biến các tập đoàn kinh tế nhà nước (những “quả đám thép”) thành gánh nặng thua lỗ và nợ nần (như Vinashin). Mô hình kinh tế thị trường “định hướng XHCN” đã đẻ ra một thứ quái thai là “tư bản đỏ”. Các nhóm lợi ích được chính quyền bảo kê đã kết hợp “CNXH thân hữu” (là cái vỏ) với CNTB hoang dã (là cái ruột) trong một cuộc hôn phối vụ lợi. Đoàn tàu cách mạng Việt Nam đã bị chúng bắt cóc và bẻ ghi chạy theo một hướng khác.
Trong khi Trung Quốc cải cách kinh tế thành công và “cất cánh” với mô hình phát triển mang “bản sắc Trung Quốc”, được các học giả phương tây gọi là “nền độc tài bền vững” (resilient authoritarianism), thì Việt Nam thất bại. Nguyên nhân vừa do thể chế bất cập (structural gaps) giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN, vừa do điều hành tồi (operational failure) và quản trị kém (poor governance) cộng với tham nhũng tràn lan. Một khi quyền lực và tham nhũng không bị kiểm soát, thì nó sẽ hoành hành như con quái vật Frankenstein bị xổng. Tư duy “kiểu Việt Nam” dựa trên sự ngộ nhận về tính “đặc thù” (exceptionalism) và tư tưởng “giáo điều” (dogmatism), bị các nhóm lợi ích lợi dụng và thao túng để trục lợi.
Cải cách hành chính bị vô hiệu hóa bởi chống đối ngầm (passive resistance). Luật doanh nghiệp bị gây khó dễ bởi các loại “quy trình” và “giấy phép con” (thậm chí vi hiến) được các bộ ngành và địa phương đặt ra để trục lợi (rents seeking). Mọi việc đều bị chính trị hóa. Thói quen tư duy (mindset) “kiểu Việt Nam”, và cách làm việc “không giống ai” đã bị dập khuôn thành “quy trình” dựa trên danh nghĩa “hệ tư tưởng XHCN” (như bất khả xâm phạm), nên rất khó thay đổi.  Ví dụ cái “loa phường”, ai cũng biết là đã quá lỗi thời, nhưng đến tận bây giờ người ta vẫn chưa từ bỏ. Đó là những sản phẩm ý thức hệ từ thời “chính trị là thống soái”.
Kết quả là tài nguyên thiên nhiên (“rừng vàng biển bạc”) đang cạn kiệt dần. Trong khi dầu khí, than đá, kim loại (và kể cả cát) sắp hết, thì ô nhiễm môi trường ngày càng tăng, nhiều nơi tới mức báo động, như bờ biển miền Trung (bị ô nhiễm bởi Formosa), hoặc không khí ô nhiễm tại Hà Nội. Tài chính quốc gia đang cạn kiệt: ngân sách thu không đủ chi, dự trữ quốc gia chỉ đủ trả nợ đến hạn. Chính phủ không biết lấy tiền từ đâu để đầu tư phát triển, trong khi viện trợ phát triển (ODA) đang cạn dần. Nạn tham nhũng tràn lan đã làm giảm tín nhiệm của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế, và lòng tin của người dân cũng đang cạn kiệt. Nhiều người cảm thấy bất an và bất lực đành “bỏ phiếu bằng chân”. Mỗi năm có khoảng một trăm ngàn người bỏ đất nước ra đi. Họ có thể là doanh nhân, trí thức, hay quan chức. Dòng người di cư ngày càng đông đã gây ra nạn chảy máu chất xám và thất thoát tài chính. Cũng như người Trung Quốc, người Việt đang đổ xô di cư sang Mỹ, Canada, Úc, Anh, và các nước phương Tây khác. 
Khủng hoảng kép
Trong tháng 7/2017, có hai sự cố như “khủng hoảng kép” (double crises) vào thời điểm nhạy cảm, đặt Việt Nam vào thế mắc kẹt. Thứ nhất là khủng hoảng do khoan dầu tại Biển Đông. Việt Nam đã yêu cầu Repsol ngừng khoan thăm dò lô 136-03 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trước sức ép của Trung Quốc đe dọa tấn công các cứ điểm Trường Sa nếu Việt Nam không chịu dừng. Dù ngừng tạm thời hay lâu dài, Việt Nam khuất phục Trung Quốc về quyền khai thác dầu khí, do không có đồng minh bảo vệ, và không đủ sức mạnh răn đe. Thứ hai là khủng hoảng ngoai giao Viêt-Đức. Việt Nam đã dùng hạ sách bắt cóc Trịnh Xuân Thanh tại Berlin và đưa về nước (theo thông báo của phía Đức) “như một bộ phim hành động thời chiến tranh lạnh”. Đức đã phản ứng mạnh mẽ, lên án Việt Nam vi phạm luật pháp Đức và quốc tế một cách “trắng trợn” (blatant) và “chưa từng có” (unprecedented).
Vụ bắt cóc này đang dẫn đến những hệ quả nghiêm trọng chưa lường hết, vì cả hai phía đều đang bị mắc kẹt. Chính phủ Đức coi vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh là “không thể chấp nhận được” (unacceptable) và “không thể bỏ qua”. Đức đang đặt mọi phương án trừng phạt Việt Nam lên bàn (và chờ thái độ phản ứng của Việt Nam), đúng lúc Việt Nam cần Đức ủng hộ Hiệp định tự do thương mại (EVFTA), cũng như tranh chấp tại Biển Đông. Đức là đối tác chiến lược quan trọng nhất của Việt Nam tại EU. Đối với Việt Nam, EU là đối tác thương mại lớn thứ hai sau Trung Quốc và là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai sau Mỹ. Thương mại song phương Viêt-Đức tăng từ $10 tỷ (2006) lên $48 tỷ (2016). Sau khi TPP bị Mỹ bỏ rơi, thì có lẽ EVFTA là cái phao cứu sinh duy nhất đối với Việt Nam. Nhưng, thủ tướng Angela Merkel có thể gây áp lực với các nước EU phủ quyết EVFTA cho Việt Nam (dự kiến năm 2018).
Hiện nay, Viêt Nam đang bị bao vây bởi quá nhiều vấn đề nan giải (như “thập diện mai phục”). Nhưng nan giải và bức xúc nhất vẫn là vấn đề nợ công và Biển Đông. Việt Nam làm thế nào để trả nợ và đối phó với nguy cơ vỡ nợ (nếu mất khả năng thanh toán) hay nguy cơ xung đột Biển Đông do tranh chấp chủ quyền và khai thác dầu khí (không thể nhân nhượng)? Liệu Trung Quốc có dám tấn công Trường Sa (như năm 1988) hay chỉ hù dọa bắt nạt Việt Nam, theo kế “rung cây dọa khỉ” và “bất chiến tự nhiên thành” (trong Binh pháp Tôn Tử)?

Tại hội nghị ngoại trưởng ASEAN-50 (Manila, August 5-8, 2017), mặc dù bị cô lập trong lập trường về Biển Đông, và trước sức ép của Trung Quốc, nhưng đoàn Việt Nam vẫn kiên trì đấu tranh. Cuối cùng hội nghị ASEAN vẫn ra được Thông cáo Chung phản ánh được phần nào quan điểm cứng rắn của Việt Nam về Biển Đông và về quy tắc ứng xử (COC), làm Trung Quốc tức giận, hủy cuộc gặp chính thức giữa hai ngoại trưởng. Tuy nhiên, Thông cáo Chung của ba ngoại trưởng Mỹ, Nhật, Úc (Manila, 7/8/2017) có nội dung và lời lẽ cứng rắn hơn nhiều so với Thông cáo Chung của các ngoại trưởng ASEAN (6/8/2017). Ba ngoại trưởng đã lên án hành vi “bồi đắp đảo và quân sự hóa các thực thể đang tranh chấp”, và kêu gọi “quy tắc ứng xử Biển Đông phải ràng buộc pháp lý, thực chất và hiệu quả”. (Laura Zhou, “China Vietnam maritime tensions flare as foreign ministers meeting called off”, SCMP, August 7, 2017

Vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh tại Berlin tuy táo tợn nhưng “chuyên nghiệp một cách vụng về” (too good too be true). Thứ nhất, họ tiến hành giữa ban ngày tại công viên có nhiều người qua lại (rất lộ liễu). Thứ hai, họ để lại smart phone tại hiện trường (có chứng cứ). Thứ ba, họ thuê xe có cài đặt thiết bị GPS chống trộm (dễ phát hiện). Thứ tư, họ đưa Trịnh Xuân Thanh vào Đại Sứ Quán Việt Nam (theo thông báo của Đức). Không biết đây là do sơ xuất của những người thực hiện, hay là họ làm theo kịch bản của một đạo diễn “cao tay”, cố ý diễn kịch để khiêu khích chính phủ Đức. Có lẽ đây là một nước cờ “gambit” trong “trò chơi vương quyền” (game of thrones) đầy bí ẩn “kiểu Việt Nam”, trong khi có “đợt sóng ngầm” (theo Lê Hồng Hiệp) đang diễn ra trước Đại hội Đảng Giữa kỳ. Khủng hoảng ngoại giao do sự kiện này gây ra sẽ tác động tiêu cực đến quan hệ Viêt Nam với Đức (cũng như với EU), làm cho quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế của Việt Nam càng thêm khó khăn. Nó vừa phản ánh khủng hoảng chính trị và đấu tranh quyền lực tại Việt Nam đã tới đỉnh điểm, vừa bộc lộ khủng hoảng truyền thông và đấu đá phe phái, với nhiều “tin vịt” (fake news) làm thật giả lẫn lộn.     
Giải pháp khả thi
Gốc rễ của vấn nạn tham nhũng là do chế độ độc quyền, độc đảng, bị các nhóm lợi ích thân hữu thao túng để trục lợi. Trong một chế độ không có pháp quyền mà chỉ có đảng trị, thì không thể kiểm soát được quyền lực, vì những người cầm quyền tự cho mình đứng trên pháp luật và thao túng mọi quyền lực và nguồn lực xã hội, dẫn đến tha hóa quyền lực, bất công xã hội và mất lòng dân. Nếu bắt và xử được một Trịnh Xuân Thanh thì sẽ có mười Trịnh Xuân Thanh khác, nếu không thay đổi thể chế chính trị. Vì vậy, để thúc đẩy cải cách thể chế (vòng hai), Việt Nam cần tập hợp những “nhân tố thay đổi” (change agents) trong nước và ngoài nước thành một liên minh những người cùng chủ trương cải cách thể chế (a coalition of like-minded institutional reformers). Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng vừa thành lập là một ý tưởng đúng hướng (nếu đó là thực chất), vì một chính phủ “Kiến tạo” (Constructive government).   
Đối với Việt Nam, lúc này có lẽ Nhật là đối tác chiến lược quan trọng nhất làm đối trọng trước sự bành trướng và bá quyền của Trung Quốc tại Biển Đông, khi Mỹ không còn đáng tin cậy. Nhật không phải chỉ là một cường quốc kinh tế, mà còn là một cường quốc quân sự, sẵn sàng hỗ trợ các nước Đông Nam Á duy trì cân bằng quyền lực tại khu vực này. Lợi ích an ninh của Nhật tại Biển Hoa Đông song trùng với lợi ích chiến lược của họ tại Biển Đông, nên cam kết an ninh của Nhật đối với Việt Nam và khu vực chắc bền vững và đáng tin cậy hơn.
Vì Chính quyền Trump đã quyết định rút khỏi TPP và có thể giảm cam kết an ninh với Châu Á, nên việc các nước khu vực hợp tác chiến lược mạnh mẽ hơn với Nhật càng trở nên thiết yếu hơn bao giờ hết để lấp vào chỗ trống đó. Các nước không chỉ cần tăng cường quan hệ song phương mà còn phải lập ra một “Mạng lưới An ninh trên Nguyên tắc” (Principled security network) như Tổng thống Barack Obama đã từng gợi ý, hoặc một “Mạng lưới Liên kết mở” (Mesh Networks) như Anne-Marie Slaughter & Mira Rapp-Hooper mới đề cập gần đây (How America’s Asian Allies Can Survive Trump”, Project Syndicate, January 24, 2017). 
Cơ chế của một mạng lưới an ninh khu vực như vậy phù hợp với mô hình an ninh tập thể và đối tác chiến lược, nhằm đảm bảo sự tồn tại bền vững. Theo Anne-Marie Slaughter, ngay cả khi “một khâu bị đứt thì hệ thống vẫn tồn tại”. Quan hệ an ninh song phương được tăng cường giữa Nhật với Việt Nam cũng như các nước khác (như Mỹ, Ấn, Úc) là nòng cốt để xây dựng một “Đối tác Chiến lược cùng Quan điểm” (Like-Minded Strategic Partnership) bao gồm Mỹ-Nhật-Ấn-Úc và Việt Nam (AJIA+V). Một liên minh bền vững như vậy là một đảm bảo thiết yếu cho sự thiếu hụt cam kết an ninh của Mỹ đối với khu vực, cũng như là một răn đe hiệu quả đối với mối đe dọa ngày càng lớn của Trung Quốc tại Biển Đông. Trong bối cảnh đó, thỏa thuận Mỹ sẽ cho tàu sân bay thăm Cam Ranh (năm 2018) qua chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch (7-10/8/2017) tiếp theo chuyến thăm của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, (31/5/2017) là một dấu hiệu răn đe, có thể làm thay đổi cuộc chơi (game changer). 
Việt Nam hoặc bất cứ nước nào khác cũng không thể một mình đương đầu với Trung Quốc. Các nước có cùng lợi ích chiến lược tại Biển Đông phải liên kết lại trong một liên minh để răn đe và ngăn chặn Trung Quốc bành trướng. Muốn duy trì hòa bình và ổn định tại Biển Đông, không thể trông chờ vào Trung Quốc và ASEAN thỏa thuận một bộ quy tắc ứng xử (COC) có hiệu lực. Trong mấy năm nữa, ít nhất cho đến hết nhiệm kỳ của Tổng thống Donald Trump, khi khu vực còn nghi ngờ vào các cam kết của Mỹ, nếu các nước này không hình thành được một liên minh gồm các nước có chung lợi ích chiến lược như vậy, để đối phó với Trung Quốc, thì sẽ là quá ít và quá muộn (như bài học dưới thời Tổng thống Barack Obama).   
Thay lời kết
Những người cực đoan giống con gà trống. Mỗi lần nó gáy thì thấy mặt trời mọc, nên nó ngộ nhận tưởng là do mình gáy nên mặt trời mọc. Vì vậy, nếu nó chưa gáy mà mặt trời đã mọc thì nó rất tức tối, cho rằng mặt trời sai, chưa gáy đã mọc. Những người cực đoan thường bảo thủ, với tư duy “đặc thù”, nên không chịu lắng nghe. Họ có xu hướng luôn khẳng định mình là đúng, còn những người khác là sai. Vì tư duy cực đoan và giáo điều, họ tin rằng chỉ có họ mới có quyền phán quyết đúng sai. Những ai không giống họ và không theo họ đều bị coi là phản động và thù nghich. Vì họ không chấp nhận đa nguyên, nên khẩu hiệu “thêm bạn bớt thù” là vô nghĩa. Nếu không tỉnh ngộ và thay đổi thì Việt Nam rất khó hội nhập, sẽ cô đơn không có bạn bè mà chỉ có kẻ thù. Ngay bạn bè và đồng minh cũng có thể biến thành kẻ thù.
Chính quyền Việt Nam tỏ ra quyết liệt chống tham nhũng (tuy nhắm vào những đối thủ chính trị nhất định) nhưng lại không chịu thay đổi thể chế chính trị (là nguyên nhân đẻ ra ra tham nhũng). Trong khi chống tham nhũng, lãnh đạo Việt Nam sợ đánh “vỡ bình” (chế độ) nhưng lại sẵn sàng đánh chìm cái thuyền kinh tế & đối ngoại (là cái phao cứu sinh). Câu chuyện bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ở Berlin là một ví dụ, bất chấp luật pháp của Đức và quốc tế, có thể bị Chính phủ Đức trừng phạt, tuy Đức là đối tác chiến lược quan trọng nhất của Việt Nam tại EU. Khủng hoảng bất ngờ trong quan hệ Đức-Viêt thật không đúng lúc khi Việt Nam rất cần Đức và EU để ủng hộ EVFTA, và bênh vực Việt Nam đối phó với Trung Quốc tại Biển Đông. Trong khi hô khẩu hiệu “làm bạn với tất cả”, Việt Nam đang biến một đối tác tốt thành thù địch. Đây là một nghịch lý chết người, mà chỉ có thể hóa giải được bằng thay đổi thể chế.   
Quyền lực và tham nhũng là hai thứ khó kiểm soát, nếu không quyết thay đổi thể chế bằng cách thay mô hình đảng trị (party rule) bằng pháp quyền (rule of law). Nếu quyền lực không bị kiểm soát nó sẽ tiếp tục đẻ ra tham nhũng, do quản trị yếu kém và thiếu minh bạch. Đó là nguyên nhân chính làm kinh tế thị trường “định hướng XHCN” bị méo mó, đi trệch đường ray phát triển. Từ mô hình phát triển (growth model) để “hóa rồng/hóa hổ” Việt Nam đã biến thành “con mèo hoang”, với mô hình thất bại (failed state). Đó là bài học đắt giá từ những “diễn biến tiêu cực” trong một thập kỷ qua, làm triệt tiêu thành quả đổi mới của hai thập kỷ trước đó, làm Việt Nam vẫn sa lầy tại ngã ba đường ý thức hệ.  
Tham khảo

1. Le Hong Hiep, “Asia’s Evolving Security Order”, Project syndicate, August 7, 2017

2. Brahma Chellaney, “Calling the Chinese bully’s bluff”, Project Syndicate, August 8, 2017

3. Laura Zhou, “China Vietnam maritime tensions flare as foreign ministers meeting called off”, SCMP, August 7, 2017

4. Anne-Marie Slaughter & Mira Rapp-Hooper, “How America’s Asian Allies Can Survive Trump”, Project Syndicate, January 24, 2017 

5. Robert Kaplan, “Eurasia’s Coming Anarchy”, Foreign Affairs, February 15, 2016

6. Moises Naim, “the End of Power”, Basic Books, New York, 2013
NQD. 12/8/2017
(Nguyễn Quang Dy là Harvard Nieman Fellow 1993, hiện nay là nhà báo và nhà nghiên cứu độc lập. Bài này viết theo chủ đề “Việt Nam và trật tự thế giới mới” 

Feb 4, 2016

HƯƠNG XUÂN NGÀY CŨ

HƯƠNG XUÂN NGÀY CŨ - SÀI GÒN TRƯỚC 1975

Gần đây, cư dân mạng truyền nhau những tấm hình, những video clip phim xưa có ghi lại những hình ảnh quê hương Việt Nam ngày cũ, đã làm sống dậy ký ức của những người con lưu xứ. Nhất là hình ảnh Tết Sài Gòn, mỗi độ xuân về.




Sống ở đất người, bốn mùa rõ rệt, tôi thấy được Thu, Hạ, Đông đi, Xuân tới, luân chuyển nhẹ nhàng như một vũ khúc mang mang của đất trời. Chồi non nẩy lộc, lá mới cựa mình, no căng nhựa sống, xanh biếc những bao la hy vọng. Tết đến trong tuổi thơ và những ngày mới lớn của tôi ở Sài Gòn dịu dàng hiện về, thật là trìu mến. Với tôi, Sài Gòn hai mùa mưa nắng, không có mùa xuân, mà chỉ có ngày Tết.




Tết là những reo vui, nào lư hương, pháo đỏ, phong bao lì xì, bánh mứt, hạt dưa, manh áo mới, bánh chưng xanh, mâm ngũ quả, cành mai tươi… và còn bao nhiêu thứ rực rỡ sắc màu khác, khiến ai mà không mê luyến. Để chuẩn bị cho giờ phút giao mùa, người mình đã bỏ bao công sức, tiền bạc, và cả cái tâm thức rạo rực cũng như thật tích cực để chào đón ngày Tết.




Sạp báo
Khi các tờ lịch hay báo xuân xuất hiện tràn ngập ở các sạp báo, đó là lúc Sài Gòn bắt đầu rộn rã lên với không khí Tết. Ngày ấy, những tờ lịch bóc ngày hay tháng, thường có hình các cô người mẫu hay ca sĩ. Bóng dáng các minh tinh Thẩm Thúy Hằng, Thanh Nga, Thanh Lan…trong nụ cười xinh bên những tràng pháo đỏ đã làm nao lòng người. Ai cũng muốn chọn mua những nụ cười xinh mang về trang trọng treo vào chỗ dễ thấy nhất, để xem ngày, biết tháng. Ngày nay, lịch thiếu nữ với các chiếc áo dài đủ màu đủ kiểu, vẫn là món lịch Tết thời trang đắt khách.



Gia Long xuân
Nhắc tới báo xuân, tôi còn nhớ, Tết là dịp cho các học sinh hay sinh viên các trường đua nhau làm bích báo. Các cô cậu văn thi sĩ mới lớn, mới ra lò, ơi ới thúc nhau, gọi nhau nộp bài vở cũng như các tờ sớ táo quân. Lúc đem tờ bích báo trường nữ của mình đi bán ở các trường khác nhất là các trường nam, chúng tôi chí choé dành nhau cơ hội của những mối duyên hạnh ngộ, ngàn năm một thưở ấy. Ngoài ra, chúng tôi còn phải bận rộn tập hát, tập kịch cho các tiết mục văn nghệ của trường nữa.



Chợ hoa
Thú vị nhất là phút cùng bạn bè rủ nhau đi chợ Tết xem hoa, ngắm người và những món mứt Tết xanh, đỏ được gói trong khay bằng giấy bóng kiếng, lóng lánh màu, trông thật vui mắt. Lũ nữ sinh chúng tôi thường được bên nam sinh nhóm bích báo trường bạn, tháp tùng đi chợ hoa.



Lúc đi ngang hàng bán cây quất (tắc), dù người bán hàng có mắt la, mày liếc thế nào đi chăng nữa, quất cũng bị bẻ trộm. Qua khỏi chợ hoa, bọn con trai móc túi ra, trên tay đứa nào cũng hai ba trái quất đem tặng lũ con gái làm quà. Đúng là nhất quỉ, nhì ma, thứ ba học trò.




Nhạc xuân
Ai từng xa xứ, phải đón Tết tha hương mới thấy cái khác biệt lớn vô chừng của Tết xứ người cùng cái Tết quê nhà. Mùi hương, cái vị, khoé nhìn, lát nếm, tất cả đều khác, kể cả cung cách đón Tết xưa và nay. Người ta nghe được mùa xuân tới gần bằng cả âm thanh của nhạc xuân. Trước 1975, khắp miền nam, đi tới đâu người ta cũng nghe thấy những bản nhạc xuân “Nắng xuân, Chúc xuân, Mừng xuân, Gái xuân, Ly rượu mừng..v..v..”

Vào những thập niên 70, ngày tôi mới lớn, không khí Sài Gòn, nơi chúng tôi lớn lên đã thoang thoảng mùi chiến tranh. Đêm hoả châu, ngày phập phồng với những vụ pháo kích, người chết, kẻ bị thương đã ảnh hưởng người dân trong mùa lễ hội. Do đó ngày Tết, chúng tôi có thêm một dòng nhạc xuân cho những chiến sĩ mà chúng tôi gọi nôm na là lính.



Những “Đầu năm lính chúc, Đồn vắng chiều xuân, Phiên gác đêm xuân, Phút giao mùa..v..v..” đã là tâm sự ngày xuân buồn quắt quay của những người trai cầm súng bảo vệ biên cương. Nhất là khi nghe Duy Khánh nức nở trong bài tân nhạc “Xuân này con không về”, bao nhiêu trái tim bà mẹ mềm ra, rũ xuống, đập nhịp thê thiết. “Con biết bây giờ mẹ chờ tin con, khi thấy mai đào nở vàng bên nương, Năm trước con hẹn đầu xuân sẽ về, nay én bay đầy trước ngõ, mà tin con vẫn xa ngàn xa…”.


Tôi có người anh trong quân đội, ngày Tết dù hưu chiến, anh cũng không được về. Cả nhà mong anh, người nhắc tới anh nhiều nhất vẫn là mẹ. Ôi biết bao nhiêu bà mẹ Việt Nam khóc chảy máu mắt trong đêm ba mươi vì nhớ, thương con, không được về trong ngày lẽ ra phải là ngày sum họp thiêng liêng.

“…Thôi, má ng đêm nay ngon gic
Con ngi đưa chiếc võng rách quê nhà
Đn vòng cu đng đi trong đêm ti
L s đy gic má nh con xa…”

(Đêm cuối năm viết cho má - Nguyễn Dương Quang)


Rồi năm mới tới, người ta chúc nhau hạnh phúc, tiền vào như nước, con cháu đầy nhà. Họ lau khô nước mắt, quên đi niềm đau, cái nghèo, chúc nhau cười nhiều, tươi tắn, mới mẻ như mùa xuân. Ngày Tết, các vở hài kịch, phim hài, đại nhạc hội, được các đài truyền hình, rạp chiếu bóng đặt hàng, đắt như tôm tươi. Những danh hài như Phi Thoàn, Thanh Hoài, Khả Năng, La Thoại Tân, Tùng Lâm đi show mệt nghỉ. Ai cũng thích cười dù là chúm chím hay thật hả hê trong ba ngày Tết. Tôi rất mê xem ciné, thường thì xem ở các rạp nhỏ bình dân gần nhà như Văn Cầm, Cẩm Vân ở Phú Nhuận hay Văn Hoa ở Đa Kao.



Một lần, tôi được bố mẹ cho tiền cùng người anh đi xem phim hài Tết ở một trong các rạp lớn như rạp Đại Nam ở đường Trần Hưng Đạo. Rạp đông kinh khủng, không có chỗ ngồi, đành đứng. Đang say mê xem phim cười, bỗng tôi thấy một vật gì nóng hổi áp sát vào lưng, tôi hoảng quá tìm tay người anh trai, cố chen và lách ra khỏi đám đông. Sau lần đó, tôi không dám đi xem phim khi rạp hát quá đông người.


Ngày Tết, người lớn đi chùa, hái lộc, xin xâm, coi bói hay thăm viếng nhau đầu năm. Riêng tụi con nít chúng tôi chỉ khoái tụ tập ở đầu ngõ xem người ta sát phạt nhau ở các đám cờ bạc, bầu cua cá cọp, hoặc rủ nhau đi xem múa lân ở các cửa tiệm gần nhà. Tôi thích ngắm con lân múa may rất lâu quanh cây gậy có gắn giây buộc phong bao đỏ và một cây xà lách. Thú gì đâu khi thấy nó cắp được cái phong bao lì xì vào cái miệng rộng.



Thời thơ ấu đứa trẻ nào mà không thích tiền lì xì vào ngày Tết. Khi không, có một món tiền lớn, tôi hay dùng nó để mua quà vặt vì tôi rất ớn ba cái món bánh chưng, thịt đông, dưa hành, phải ăn trong ba ngày Tết. Mẹ tôi thường cấm các con ăn quà bán ngoài đường, nên tôi phải ăn lén.


Đầu hẻm Cô Giang cắt ngang đường Võ Duy Nguy có một bà chuyên bán ruột và chân vịt rất ngon. Có tiền, tôi liền chạy đến hàng bà, mua và chén ngay cái món ruột vịt dòn dòn, dai dai, ngon hết chỗ chê đó. Không biết bà ướp gia vị gì mà khi ăn tôi thấy từa tựa như phá lấu. Nó thơm hương hoa hồi, hoa quế, lại thấm vị mằn mặn của xì dầu, xen trong cái ngòn ngọt mía đường nâu. Thật là đã con tì, con vị một đứa bé thích ăn quà vặt như tôi. Bà rất đông con, tới 16 đứa. Bà cố thủ chỗ ngồi bán đó rất lâu, thay đủ món, kể cả món trứng ung. Còn dư tiền tôi lại la cà qua mấy cái xe bán đậu đỏ, bánh lọt ở trước cổng trường Gia Long có nước dừa béo ngầy ngậy ngon hết biết.



Một mùa xuân nữa lại về cho những người con xa quê hương, lìa đất tổ. Ngồi nhớ về những khoảng khắc được lưu dấu trong ký ức xa xưa, tôi chợt nghĩ mình may mắn đã có những kỷ niệm ngày xuân thật đẹp và tròn đầy. Trong khi ngoài kia, bên Việt Nam hay bất cứ nơi nào trên thế giới còn có những người không có đến một ngày xuân đủ nghĩa. Không hoa, không bánh, không áo mới và không cả tình thương. Xin thắp một nén trầm ngày Tết cầu nguyện cho tất cả người con Việt có được một ngày xuân ấm áp và đủ đầy.



Trịnh Thanh Thủy

Tết, lúc người Việt… khiếm nhã nhất

Tết, lúc người Việt… khiếm nhã nhất

Đoàn Bảo Châu

- Người Việt có thói quen quan tâm tới cuộc sống cá nhân của nhau. Nhưng điều này không phải phù hợp, thậm chí thành khiếm nhã. Tết là dịp điều này thể hiện rõ nhất.

Bao giờ lấy chồng? bao giờ đẻ con? 

Khi được hỏi việc chuẩn bị Tết, cô em tôi chép miệng: “Em ngán Tết lắm rồi, chỉ thích bỏ đi chơi đâu xa”

“Sao thế? Dịp sum họp gia đình, gặp gỡ bạn bè mà!”

“Gặp rồi ai cũng hỏi sắp lấy chồng chưa, và sẽ phải trả lời cùng một câu hỏi đó suốt mấy ngày liền, nói đi nói lại. Có năm em định trốn ở nhà, nhưng rồi cũng có khách của bố mẹ đến, cũng phải tiếp, rồi cũng vẫn phải trả lời cùng câu hỏi ấy.”  

Nghĩ lại thì tôi thấy khó cho cô em thật. Tết là dịp người Việt ‘tung ra’ vô số câu hỏi khiến người được hỏi bối rối, mặc định rằng đó là hình thức thể hiện sự quan tâm. Chưa chồng hỏi sắp lấy chồng chưa? Chưa đi học hỏi bao giờ đi? Đi làm rồi hỏi làm công ty nào? lương bao nhiêu: Nếu đối tượng mới cưới thì thể nào cũng hỏi sắp có em bé chưa, rồi chúc cuối năm có em bé…vv.. 

Nhìn bề ngoài, những câu hỏi thăm ấy có vẻ vô hại nhưng mang lại cho người bị hỏi áp lực tâm lý và sự khó xử không nhỏ. Cô gái “nhỡ thì” hay đánh mất tình yêu bị xoáy vào nỗi buồn. Người hiếm muộn cười gượng hay cậu trai mới đi làm bối rối về đồng lương khởi nghiệp.  

Khổ nỗi, với nhiều người, không hỏi những câu như thế thì họ không biết nói gì khác. hỏi những câu gì khác. Cách thức ấy đã thành thói quen giao tiếp hàng trăm năm của người Việt. Nhưng không phải cái gì tồn tại lâu thì được phép chấp nhận. Cuộc sống thay đổi đòi hỏi văn hoá giao tiếp cũng cần thay đổi, nhanh hay chậm là do ý thức của mỗi chúng ta và quan trọng hơn cả là định hướng giáo dục trẻ em về giao tiếp. Tránh trường hợp vô tình làm người khác khó chịu. 

Một lần, trong đám ma bà dì vợ, có một khách đến viếng, chắc chỉ hơn tôi vài tuổi nhận xét: “Sao mày để vợ gầy thế, vậy là không được rồi” Chưa nói tới cái nội dung thô thiển thì việc mày tao suồng sã lần đầu mới gặp đã đủ khiến tôi khó chịu. Giữa đám tang, tôi đành tặc lưỡi cho qua, bụng thầm nghĩ nếu cứ giữ kiểu giao tiếp ấy, thằng cha này sẽ có lúc ăn đòn ở một cuộc rượu nào đấy. Chưa hết, nhiều người tỏ ra ngạc nhiên, hỏi: “Ơ, vợ anh cao hơn anh à?” Tôi cười bảo: “Ừ, chẳng qua là do chân cô ấy dài, tôi biết làm sao được! Mà hình như luật  hôn nhân và gia đình có cấm vợ cao hơn chồng đâu!”  

Một kiểu “tra tấn” khác: các ông bà già, thường là ở nông thôn, hay hỏi: “Thế cháu làm được bao nhiêu tiền mỗi tháng?” Hàng xóm của một cô bạn li dị chồng hỏi con gái của cô ấy lúc cháu mới 3 tuổi: “Thế bố cháu có cô nào mới chưa?” Khiến đứa bé khó chịu, đòi về nhà không đi chơi nữa.

Tôi đến nhà anh, anh đến nhà tôi 

Nhiều năm liền, ông bạn tôi giám đốc một công ty thương mại phải chơi trò “trốn Tết”: mùng Một thăm nội ngoại xong là cả nhà lên máy bay đi nghỉ vì: “Người khoẻ hơn nhiều. Ở Hà Nội, chúc tụng rượu bia suốt mấy ngày chắc chết. Cả năm đã phải uống đủ kiểu với đối tác, bạn hàng rồi”. 

Hình thức trong giao tiếp đã chất lên vai người Việt gánh nặng vô hình. Tôi đã đến thăm anh thì mặc nhiên tôi cũng chờ đợi sự viếng thăm của anh. Khách đến là phải mâm bát, cụng ly. Vậy là lê la rồng rắn từ nhà này sang nhà khác, cuối ngày bải hoải, Tết đã thành một cực hình. Khổ nữa uống rượu là phải cạn chén, thế mới đẹp, mới hảo hán, mới chan chứa chân tình.  

Chỉ khổ mấy bác sỹ trực mấy ngày tết. Cứ phải mổ não, nẹp chân, nẹp cẳng suốt. Nhà nào xấu số hơn thì cuống lên đi tìm quan tài. Nhu cầu mặt hàng này bỗng tăng vọt.  

Mừng tuổi, biếu sếp: sự nhạy cảm khó xử 

Thay vì mừng tuổi trẻ em mấy đồng tiền lẻ để lấy may thì phong tục ấy lại biến thành một điều nhạy cảm khó nói. Tập tục mừng tuổi trở thành cách để thể hiện bản thân. Mà trong xã hội, người giàu kẻ nghèo đứng cạnh nhau là thường. Người không có tiền bỗng trở nên ngại ngần khi mừng tuổi con cháu nhà giàu, mừng nhiều thì quá sức, mừng ít thì dường như không phải phép với bạn.  

Tôi biết có vợ những đàn ông có chức sắc, cứ Tết đến là phải chầu trực trước ngõ sếp hay đối tác của chồng, chờ khi cổng nhà mở là lao vào đưa quà. Có trường hợp phải chầu trực cả buổi, bởi vị kia quyền cao chức trọng, có quá nhiều người đến biếu quà, chỉ được vợ sếp tiếp. Ra về còn lăn tăn không hiểu phu nhân của sếp có nói lại với sếp không? Nhiều người thế, bà ấy có nhớ mình là ai không? Liệu cái phong bì ấy có bị thất lạc không? Rồi không biết vụ tết này, chồng mình được biếu quà, có bù lại được cái chi phí này không?  

Cỗ bàn ngập mặt, nỗi kinh sợ của phụ nữ  

Đáng nhẽ ngày xuân, phụ nữ phải được thảnh thơi, váy áo đẹp đi chơi thì họ phải gập lưng xuống dọn nhà, làm cỗ với đủ các món truyền thống, đa phần những món ấy giống nhau đến chán ngấy: gà luộc, miến, măng, thịt đông, bánh chưng… Không làm thì bố mẹ chồng trách con dâu không chu đáo, mà không phải bố mẹ chồng thì ông bà tổ tiên trên bàn thờ có khi cũng không hài hòng.  

Vậy, bản chất chung của tất cả những vấn nạn Tết và giải pháp là gì?  

Đấy là hệ quả của một nền văn hoá mang nặng hình thức. Tết trở nên rườm rà, nặng nề và là nỗi kinh sợ của người lớn. Chính chúng ta tự làm khổ mình. Điều này cần phải thay đổi để con người Việt Nam được giải phóng khỏi những khổ ải mang tính thói quen văn hoá.  

Đừng hỏi hay quan tâm tới những gì mang tính riêng tư của người khác. Đàn ông đừng ngại từ chối uống rượu. Đừng làm hảo hán dưới âm phủ mà nên làm người đàn ông điềm đạm vui thú dài dài với vợ con. Phụ nữ chỉ nấu những món chồng con thích. Mừng tuổi trẻ con bao nhiêu là hoàn toàn theo tình cảm và khả năng của mình.  

Việc biếu sếp là khó nhất nhưng không phải không thay đổi được. Hãy đến với ai mình thực sự quý mến chứ không phải vì một sự tính toán hơn thiệt. Làm theo năng lực, đừng mong chờ ân huệ để lót đường cho công danh của mình.

Đại hội XII,một thất bại chung của Việt Nam!

Đại hội XII, một thất bại chung của Việt Nam!
 
Nguyễn Trung
  
1.
 
        Đấy là nhận xét của tôi, - đứng tại góc độ nhìn nhận một Việt Nam với Đại hội XII của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thế giới hôm nay sẽ được gì, mất gì? Sẽ mạnh lên hay yếu đi?.. 
Đơn giản vì thế giới hôm nay nói chung, và nhất là (a) xu thế trên thế giới muốn có một Việt Nam mạnh đứng vững trên đôi chân của mình mà hòa bình và sự phát triển của thế giới hôm nay đang cần, hoặc là (b) xu thế muốn có một Việt Nam tiếp tục suy yếu để khai thác tốt hơn nữa sự lệ thuộc của nước này cho khát vọng giấc mộng Trung Hoa.., các xu thế khác (c) .., (d) .., (e) … vân vân.., tất cả những xu thế này trên thế giới không quan tâm đến mức mất ăn mất ngủ chuyện ai ở ai đi của Đại hội XII…  
Các xu thế này trên thế giới quan tâm nhiều hơn đến chuyện ai ở ai đi đã được định hình tại Đại hội XII như vậy hứa hẹn sẽ dẫn tới một Việt Nam nào trong thế giới hôm nay và những năm tới? Sẽ có lợi hay bất lợi cho ai?.. Với một Việt Nam sau Đại hội XII như thế sẽ có những hệ quả gì trên bàn cờ khu vực, bàn cờ quốc tế?.. vân vân...  
Nhận xét của tôi “Đại hội XII là một thất bại chung của Việt Nam” còn xuất phát từ góc nhìn Việt Nam đang đứng trước một bước ngoặt lịch sử, được tạo thành bởi 2 yếu tố quyết định. Đó là (a) thế giới đã sang trang, hiện nay đang đi vào một thời kỳ có nhiều vấn đề quyết liệt nhất kể từ chiến tranh lạnh I (xảy ra sau chiến tranh thế giới II; hiện nay là chiến tranh lạnh II); và (b) sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta cũng phải sang trang, bởi vì giai đoạn phát triển đầu tiên sau 40 năm độc lập thống nhất đã hoàn tất (thật ra giai đoạn này đã kết thúc cách đây khoảng 10 năm rồi), ngày nay nước ta bắt buộc phải tìm đường trở thành một nước phát triển.  
Tại bước ngoặt này, thách thức đối với nước ta quyết liệt chưa từng có, nhất là (1) vấn đề phát triển tự thân của đất nước ta và (2) vấn đề Trung Quốc bành trướng. Song cơ hội lớn cũng chưa từng có: Ngoại trừ Trung Quốc, hầu như cả thế giới mong muốn và hậu thuẫn một Việt Nam trở thành nước phát triển! 
Vì thế, phải đưa đất nước sang trang tại bước ngoặt lịch sử này là đòi hỏi chính trị có ý nghĩa sống còn đối với đất nước.  
Song tại Đại hội XII – trong Báo cáo chính trị cũng như trong Nghị quyết của Đại hội đã được thông qua, trong bố trí đội ngũ lãnh đạo cho nhiệm kỳ khóa XII…  đòi hỏi chính trị hàng đầu này coi như không tồn tại.  
Giải quyết câu chuyện ai ở ai đi và phải duy trì bằng được nguyên trạng của chế độ chính trị hiện nay là công việc chủ yếu của Đại hội – từ khâu chuẩn bị đến tiến hành Đại hội.   
Trong khi đó toàn bộ những thách thức hiểm nghèo đất nước đang phải đối mặt trên mọi phương diên đối nội cũng như đối ngoại, những vấn đề quốc kế dân sinh sống còn của thời kỳ sang trang… chỉ được Báo cáo Chính trị và Nghị quyết Đại hội XII đáp ứng bằng những quan điểm – thực ra chỉ là những khẩu hiệu, đã được nhắc đi nhắc lại mòn cả chữ trong các Đại hội kể từ Đại hội VII đến nay, với kết quả đạt được là thực trạng đất nước hôm nay.  
Những quan điểm hay khẩu hiệu đó mấy chục năm qua đại thể là: kiên trì giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đưa nước ta sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, kiên quyết bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, kiên quyết chống 4 nguy cơ, quyết xây dựng đất nước giầu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh… Đại hội XII thay đổi một số ngôn từ, song cũng chỉ dừng lại như một khẩu hiệu, tuyệt nhiên không có lấy một quyết sách nào mới cho nhiệm vụ đưa đất nước bước sang một trang phát triển mới và thích nghi được bối cảnh quốc tế hôm nay. 
Hãy thử đặt ra vài câu hỏi
-      Kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa từ 40 năm nay, đất nước ta hôm nay ra sao?
-      Phấn đấu đưa nước ta sớm trở thành một nước công nghiệp hiện đại bằng cách nào? “Sớm” là bao giờ?, “cơ bản là nước công nghiệp theo hướng hiện đại” nghĩa là gì?, 30 năm đổi mới vừa qua đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đã làm được gì?, cái giá đã phải trả đến nay?...
-      Rồi đây nước ta sẽ là nước công nghiệp gì? - nếu như 70 – 80% xuất khẩu hiện nay là nhờ vào FDI, với nền kinh tế hiện nay lắp ráp và gia công là chủ yếu, lao động cơ bắp và công nghệ thấp đang là các yếu tố sản xuất quyết định, sẽ còn phải tiếp tục dựa vào nhiều hơn nữa loại FDI đáng sợ này để có thêm công ăn việc làm, nhiều vùng chiến lược của đất nước ngày càng bị các yếu tố nước ngoài chi phối nghiêm trọng, nhiều đơn vị kinh tế quan trọng đã bị nước ngoài mua đứt hoặc chịu sự chi phối của vốn ngoại… …
-      Không thể nhắm mắt trước sự thật tổng quát: Về nhiều mặt, sau 30 năm công nghiệp hóa hiện đại hóa, hôm nay chúng ta đang là một nước đi làm thuê, đất nước ta đang là một đất nước cho thuê… Chưa nói tới sức ép của hàng loạt các vấn đề kinh tế vỹ mô khác đang vô cùng nóng bỏng – nổi lên là: những mối nguy hàng ngày trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, là câu hỏi vỡ đầu của doanh nghiệp mọi loại hình sở hữu: Làm thế nào có sản phẩm mới để có thể tồn tại trong cạnh tranh hôm nay?,  là làm sao sớm tạo ra được một nền nông nghiệp mới phù hợp?.. … …
-      Sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại như thế nào với thể chế chính trị toàn trị hiện có và sẽ còn được củng cố hơn nữa theo nghị quyết của Đại hội XII và đội ngũ lãnh đạo mới có quá đông thành viên từ công an và quân đội?.. … …
-      Với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra trên thế giới, sự hội nhập hiện nay của Việt Nam vào kinh tế toàn cầu được tiến hành trong bối cảnh của trật tự thế giới thế kỷ 21: cạnh tranh và đấu tranh với nhau rất quyết liệt giữa các nền kinh tế và các thế lực; trong khi đó thế giới ngày càng nhiều vấn đề kinh tế, chính trị và quân sự rất nhạy cảm (ví dụ: chỉ riêng một vấn đề di tản từ Bắc Phi vào châu Âu đủ làm cho EU chao đảo, rạn nứt! Cứ cái đà như ba thập kỷ vừa qua, Trung Quốc bá chiếm Biển Đông hình như sẽ chỉ còn là vấn đề thời gian? Vân vân…) . Thực tế khách quan này đặt ra đòi hỏi sống còn cho Việt Nam: phải sớm tạo ra cho mình một nền kinh tế dựa trên lao động ngày càng nhiều hàm lượng chất xám, phát huy tối đa tiềm năng con người, đất nước phải được vận hành bởi một thể chế chính trị kiến tạo ra được sự phát triển mới này, phải lựa chọn được một quốc sách đối ngoại phù hợp... Đại hội XII đã ý thức được những đòi hỏi sống còn này? đã đề ra được những đối sách gì cho đất nước?..
-      Nói rốt ráo, đất nước đã bỏ lỡ 40 năm rồi. Sự thật của cuộc sống trong thế giới hôm nay nghiêm khắc đến mức đòi hỏi Việt Nam phải sớm trở thành một dân tộc khác giác ngộ được đầy đủ chính bản thân mình, để tự đứng lên là chính mình. Việt Nam phải sớm tạo ra cho mình một nền kinh tế khác, phải xây cho mình một thể chế chính trị khác, để sớm dựng lên một quốc gia Việt Nam khác. Đấy là con đường Việt Nam thoát khỏi thực trạng èo uột và lệ thuộc hiện nay, giành lấy sự tôn trọng và sự hợp tác bình đẳng giữa các quốc gia trong cộng đồng quốc tế, và nhất là để có thể trở thành một láng giềng bình đẳng và được tôn trọng của Trung Quốc... Chẳng lẽ những đòi hỏi sống còn này của đất nước không đáng để Đại hội XII quan tâm? Ngoài cái gọi là kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa Mác – Lênin, hai năm chuẩn bị và 8 ngày họp Đại hội XII không có được lấy một chữ về những vấn đề sống còn này của đất nước. Vứt bỏ những nhiệm vụ chính trị trọng đại như vậy của đất nước, lại dồn hết sức lực vào câu chuyện duy nhất ai ở ai đi? của khóa XII này để bám giữ chế độ, thử hỏi ĐCSVN sau Đại hội XII sẽ mạnh lên hay sẽ tha hóa trầm trọng thêm?
-      Trong vòng chưa đầy 10 ngày đầu tháng 1-2016 Trung Quốc đã cho 46 lần máy bay của họ xâm phạm vùng trời của ta tại Hoàng Sa và Trường Sa, xâm phạm vùng thông báo bay của nước ta, ngang nhiên đưa vào sử dụng các căn cứ quân sự họ xây dựng trái phép trên các đảo lấn chiếm của ta… Tiếp theo đó là việc đưa giàn khoan HD 981 vào vịnh Bắc Bộ… Thử hỏi: Giữa lúc Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng vừa mới đi thăm Trung Quốc về và Đại hội XII sắp họp, những hoạt động của máy bay Trung Quốc và sự việc giàn khoan HD 981 mang tính vỗ mặt và đầy dã tâm bành trướng này nói lên điều gì? Luật chống khủng bố ở nước ngoài Trung Quốc mới ban hành (12-2015)  có ảnh hưởng ra sao? Trước thực tế này thực hiện nghị quyết Đại hội XII kiên quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước như thế nào bây giờ?
-      Vân vân…
-     
 
Còn nhiều câu hỏi mất còn đối với đất nước như thế cần được đặt ra sau Đại hội XII.  
Có quá nhiều sự việc diễn ra trong suốt quá trình chuẩn bị (kể từ Hội nghị Trung ương 4 khóa XI), tiến hành và kết thúc Đại hội XII đã tự phơi bầy ra trước công luận những diễn biến mới tệ hại chưa từng có trong nội bộ Đảng và trong hàng ngũ các chính khách của Đảng… Các sự việc đã diễn ra, từ không khí trên những gương mặt sát khí đằng đằng với mọi vũ khí khí tài hiện đại bên ngoài nơi họp Đại hội, cho đến những diễn biến thăng trầm bất thường gần như từng ngày từng giờ bên trong Đại hội, tất cả đều mang tính bi hài kịch đến tột độ, thậm chí khó mà có thể thấy  được ngay cả trong những kiệt tác văn học!  
Song Đại hội XII chỉ có một kết quả, hay là chỉ làm được một việc duy nhất: Ai ở, ai đi và kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin. 
Tất cả những điều nói ra ra trên đây đều dẫn tới kết luận cuối cùng: Sau Đại hội XII ĐCSVN tiếp tục yếu đi, nội bộ ngày càng phân hóa, đảng tiếp tục tha hóa.  
Quan trọng hơn thế, Đại hội XII đã tự phơi bầy ra trước cả nước: Nhiệm vụ chính trị tối thượng của quyền lực trong Đảng bây giờ thực chất chỉ nhằm vào duy trì bằng được chế độ toàn trị. Quyền lợi mà quyền lực trong Đảng bám giữ được cùng với nỗi khiếp sợ trước Trung Quốc là hai nguyên nhân chính dẫn tới kết quả này của Đại hội. 
Với sự thất vọng trong dân về Đại hội XII, ĐCSVN hôm nay đang “mất” trong dân nhiều nhất so với tất cả các giai đoạn trước đây, kể từ ngày thành lập.  
Vì các lẽ nói trên, có thể coi Đại hội XII là thất bại của ĐCSVN - một sự thật khách quan! 
Đại hội XII còn là một thất bại của Việt Nam trên bình diện quốc tế, bởi lẽ triển vọng sớm xuất hiện một Việt Nam mạnh và là chính mình đã bị kết quả của Đại hội XII đẩy ra xa nữa vào tương lai không đoán định được – vào cái thời buổi của thiên hạ: Lỡ một bước, hận nghìn thu!… Giữa lúc nền kinh tế đất nước 3 năm gần đây đang trên đường phục hồi, các đối tác và bạn bè trên thế giới đang kỳ vọng vào những tiềm năng to lớn của Việt Nam!..
 
2.
  
Đại hội XII còn là thất bại chung của cả nước, vì lẽ sau đây:
 Trước hết khái niệm “cả nước” ở đây xin được hiểu là mọi người Việt Nam yêu nước, không kể bất kỳ sự khác biệt nào, sống trong nước hay ở nước ngoài.  
Cả nước như thế đã có không ít những ý kiến đóng góp đúng đắn, chuẩn xác, xây dựng, với tất cả ý thức trách nhiệm. Cả nước như thế mong muốn Đại hội XII sẽ mở ra một bước ngoặt lịch sử, đưa nước ta đi vào con đường trở thành nước phát triển. Cả nước đòi hỏi Đại hội XII phải mở ra một thời kỳ đổi đời đất nước, và ĐCSVN phải thay đổi thành một đảng dân tộc và dân chủ để làm đúng được chức năng là đảng cầm quyền… 
Nhiều ý kiến, kiến nghị đã nêu lên những vấn đề cụ thể phải giải quyết, những việc phải làm, các bước đi…, để hòa bình tiến hành một cuộc cải cách chính trị từ trong Đảng ra và từ xã hội dân sự, mang nhiệm vụ đổi đời đất nước và giải phóng tiềm năng con người với tính cách là nguồn lực và sức sáng tạo quý nhất của quốc gia. Cả nước mong muốn Đại hội XII sẽ là Đại hội của sự thật, dân chủ, hòa giải dân tộc và cải cách…  
Không ít trong những kiến nghị này chẳng những đòi hỏi, mà còn giao phó cho ĐCSVN với tính cách là đảng chính trị độc nhất đang nắm trong tay vận mệnh đất nước (Đảng tự gọi mình là đảng cầm quyền)  trách nhiệm ràng buộc là phải đứng ra chủ xướng và tổ chức cuộc cải cách chính trị trọng đại này. Để khỏi nói chay, có thể nêu ra bức thư ngỏ ngày 09-12-2015 của 127 người ký tên gửi lãnh dạo ĐCSVN khóa XI và Đại hội XII là một trong những ví dụ cụ thể.  
Cả nước làm như thế không phải vì ảo tưởng, mà vì đấy là sự lựa chọn của trí tuệ và ý chí, tiết kiệm xương máu cho đất nước, và hứa hẹn thành công vững bền. 
Nếu tổng hợp những kiến nghị xây dựng như vậy trong cả nước gửi Đại hội XII, có thể kết luận chắc chắn: trí tuệ Việt Nam hoàn toàn đủ khả năng vạch ra và tiến hành thành công cuộc cải cách chính trị vỹ đại này mà đất nước đang cần.  
Rất tiếc, cả nước đã thất bại, đơn giản vì những kiến nghị xây dựng này đã bị bỏ ngoài tai và không mảy may tác động vào Đại hội XII. 
Coi Đại hội XII là thất bại chung của cả nước, suy nghĩ này lập tức sẽ vấp ngay sự phản kháng quyết liệt rất xác đáng trong dân: Thất bại của Đại hội XII là chuyện của Đảng, tự Đảng gây ra, sao lại lôi buộc cả nước dính vào? Cái Đảng này không thể thay đổi và cũng không biết tự thay đổi, cũng chẳng lực lượng nào trong nước có thể lật đổ nổi… Vậy thất bại của Đại hội XII và cái Đảng này tự đi tiếp tới sụp đổ là tốt cho đất nước chứ, hà cớ gì lại buộc cả nước dính vào, lại còn dám đòi cả nước gánh chịu thất bại chung?.. Đất nước đến nông nỗi này mà vẫn còn rắp tâm cứu Đảng? Còn ngu muội như thế đến bao giờ nữa? Ngu muội đến phản động!  Tại sao không làm tất cả để cứu nước?.. … … 
Phải thừa nhận ĐCSVN tha hóa tiếp và tự đi tới tự sụp đổ là một trong những khả năng hiện thực nhất, đã xẩy ra rồi tại các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô – Đông Âu cũ. Thậm chí không loại trừ đây là khả năng hiện thực duy nhất của nước ta trong thực trạng hôm nay – một khi tức nước vỡ bờ! Ngoài ra không có thế lực thù địch nào trong ngoài nước làm được việc lật đổ ĐCSVN và chế độ toàn trị của nó đâu, kể cả quyền lực rắn và mềm của bất kỳ ngoại bang nào! 
Nhưng nếu bây giờ cả nước chịu buông tay, chấp nhận kịch bản Đảng tự đi tiếp đến sụp đổ, sẽ đồng nghĩa cả nước cam chịu chấp nhận để cho đất nước rơi tự do vào một cuộc bể dâu mới, chắc chắn sẽ đầy máu và nước mắt!  
Cả nước ta bây giờ, vào thế kỷ 21 này, với tất cả những kinh nghiệm của thất bại và thành công trên con đường đất nước đã trải qua 70 năm qua, với tất cả những bài học xương máu của các quốc gia trên thế giới, chẳng lẽ đành một bề bó tay cam chịu chờ đợi cuộc bể dâu mới này ập đến? Và chỉ còn biết than thở: …Thôi thì cái gì phải đến sẽ đến!?.. 
Thế rồi sau cái cuộc bể dâu này, cái gì phải đến sẽ đến nữa?.. Lại sẽ triền miên giằng xé nhau nữa!?.. 
Trời ơi, không thể như vậy được! 
Vì thế, suy nghĩ chấp nhận coi Đại hội XII là thất bại chung là suy nghĩ quyết liệt: Đất nước này dứt khoát không phó mặc thân phận mình cho mọi trò chơi quyền lực của Đảng. Dứt khoát không phó mặc cho Đảng số phận của đất nước muốn ra sao thì ra! 
Cả nước coi Đại hội XII là thất bại chung, có nghĩa là cả nước quyết đứng lên giành lấy quyền tự quyết định thân phận của mình và số phận của đất nước, quyết không cam chịu gắn bó số phận của đất nước với quá trình tự sụp đổ của Đảng.  
Cả nước coi Đại hội XII là thất bại chung, là suy nghĩ bao dung và nhân văn theo tinh thần đoàn kết và hòa giải dân tộc, tiết kiệm xương máu và mồ hôi nước mắt của dân tộc, chắt lọc các yếu tố tích cực dù là nhỏ nhất – theo tinh thần gạn đục khơi trong, còn nước còn tát.  
Hiển nhiên quyền lực trong Đảng không biết lẽ phải và chỉ biết đối thoại bằng bạo lực. Song ngày nay át được tiếng nói chính nghĩa của dân không dễ nữa. Chưa nói đến trong 4,5 triệu đảng viên, chắc chắn có một tỷ lệ rất lớn số đảng viên còn nặng lòng yêu nước và đứng về phía dân. Ngay trong Đại hội XII cũng có những tiếng nói và các con số biểu quyết phản ánh sự phân hóa sâu sắc trong nội bộ Đảng, đến mức đã có nhận xét: ĐCSVN sau Đại hội XII không còn là như trước nữa… …  
Muốn hay không muốn, dù chỉ mang tính khẩu hiệu xuông, Báo cáo chính trị và Nghị quyết của Đại hội XII vẫn phải ghi một số những việc phải làm cho nhân dân, cho đất nước, nhất là đã nêu ra (thực ra là chỉ nhắc lại)  đòi hỏi phải đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, đã đặt vấn đề phải thực thi quyền của nhân dân làm chủ đất nước và các quyền tự do dân chủ của công dân… Cả nước cần phải có tiếng nói quyết liệt đủ sức đòi thực hiện những điểm đã một lần nữa ghi được trên giấy trắng mực đen này. Đừng để cho đấy chỉ là câu chuyện của giấy và mực! Một tiếng nói có thể bị trấn áp, song cả nước đồng thanh thì quyền lực nào cũng phải nghe.  
Giữa lúc báo chí và hội họp không đủ lời ca ngợi Đại hội XII mà dám coi Đại hội XII là thất bại chung, có nghĩa là cả nước sẽ có ý chí dám nói lên những vấn đề phải nói với tinh thần xây dựng, đoàn kết và hòa giải. Chỗ này cần phải nói cho rành rọt: Đây là hòa giải giữa người bị cai trị và người cai trị, giữa dân và Đảng, để mỗi trong hai bên đều cố vượt qua nỗi sợ và những yếu kém của mình, để cùng nhau tìm ra tiếng nói chung cho cái đúng, quyết định được những giải pháp đúng cho những vấn đề nóng bỏng của đất nước, đúng với tinh thần: Tổ quốc trên hết! 
Như vậy, bằng lý trí, ý chí và lý lẽ đúng đắn, dân sẽ không sợ những uy lực càn bậy, dám nói những điều phải nói, dám làm những việc phải làm.  
Như vậy, Đảng cũng sẽ không sợ dân lật đổ, biết dựa vào dân để tự cải tạo và nâng cao chính mình, phát huy được sức mạnh của dân để giải quyết những vấn đề của đất nước – đây cũng là con đường phấn đấu để trở thành đảng cầm quyền với đúng nghĩa. (Chiến tranh qua lâu rồi, Đảng hôm nay hoàn toàn vứt bỏ bài học dựa vào dân của chính mình, đã quên mất có nhân dân bảo vệ Đảng mới tồn tại được đến hôm nay!)  
Về phía dân, một khi cả nước dám coi Đại hội XII là thất bại chung, điều này cũng có nghĩa cả nước dứt khoát không cam chịu khoanh tay ngồi yên, phó mặc cho sự tha hóa của Đảng xô đẩy vào đất nước vào cái bể dâu ghê sợ phía trước. Ý chí này biểu hiện sự trưởng thành chính trị ngày càng cao của nhân dân, và là nguồn lực, là sức mạnh vô cùng quan trọng không thể thay thế được cho tiến hành cải cách chính trị thành công trong hòa bình. Nuôi dưỡng và phát huy ý chí này chính là một trong các nhiệm vụ trọng đại nhất của xã hội dân sự. 
Về phía Đảng, cần nhận thức sâu sắc: Chừng nào cả nước còn coi Đại hội XII là thất bại chung, chừng đó còn cho thấy dân muốn Đảng phải thay đổi để trở nên tốt hơn, dân không muốn chủ động đẩy Đảng trở thành kẻ đối kháng của mình; qua đó khả năng dựa vào dân để thay đổi Đảng thành đảng của dân tộc và dân chủ vẫn là hoàn toàn hiện thực cho hôm nay. Đảng muốn đi với dân tộc thì phải dựa vào dân như vậy, dân chủ là chìa khóa giải quyết mọi vấn đề.  
Suy nghĩ cả nước coi Đại hội XII là thất bại chung như thế, trước hết có nghĩa vô cùng quan trọng: Cho đến giờ phút này nhân dân vẫn muốn kéo ĐCSVN về đứng chung trên chiến tuyến của mình – chiến tuyến của Tổ quốc Việt Nam trên hết! Hôm nay ĐCSVN và 4, 5 triệu đảng viên của mình nếu chưa hiểu được điều này thì phải cố học để hiểu và thấm nhuần bằng được điều này! 
Dân và Đảng dám coi Đại hội XII là thất bại chung, đấy chính là ý chí mãnh liệt cả từ phía dân và phía Đảng, quyết cùng nhau chặn đứng xu thế vận động Đảng ngày càng đi ngược với lợi ích quốc gia. Chẳng lẽ Đảng không cần dân, không muốn dựa vào dân để đảo ngược sự vận động này của Đảng?  
 
3.
 
         Những nhiệm vụ phải làm đưa đất nước sang trang tại bước ngoặt lịch sử hiện nay tuy không được xây dựng thành những quốc sách tại Đại hội XII, nhưng vẫn còn nguyên vẹn phía trước, và phải làm.  
Dù có hay không có ghi trong Nghị quyết của Đại hội XII, lợi ích quốc gia đòi hỏi ĐCSVN trong khóa XII này phải tạo ra được sự phát triển của đất nước làm được chức năng chuyển giai đoạn, đưa nước ta hiện nay vẫn là nước nghèo đi vào con đường trở thành nước phát triển. Đổi mới chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết, cải cách thể chế chính trị trở thành yếu tố quyết định thúc đẩy đất nước phát triển. Vì thế trước hết Đảng phải nghiêm khắc đánh giá lại chính mình và thay đổi quyết liệt chính mình, như Bộ trưởng Bùi Quang Vinh đã phát biểu tại Đại hội. 
Không thể chỉ bằng những lời kêu gọi, bằng khẩu hiệu, bằng xử thị uy một số vụ án, bằng những sửa chữa chắp vá một số thủ tục, quy chế.., chỗ này một tý, chỗ kia một tý theo kiểu chuồn chuồn đập nước dưới cái tên gọi mỹ miều là cải cách thể chế, nhưng lại giữ nguyên hệ thống chính trị hiện tại và siết hơn nữa – nhân danh kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, bạo danh coi độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn của dân tộc! Càng không phải bằng cách quy kết tất cả những gì quyền lực Đảng không thích vào chung một rọ “suy thoái đạo đức chính trị tư tưởng, tự diễn biến…” để miệt thị và hù dọa, úp thêm cái mũ “các thế lực thù địch” để trấn áp! Không phải thế! 
Đất nước cần hơn bao giờ hết một cuộc cải cách triệt để hệ thống chính trị với những bước đi thích hợp. Lợi ích quốc gia và những thách thức hiểm nghèo phía trước đất nước đang phải đối mặt đòi hỏi ngay trong nhiệm kỳ khóa XII này ban lãnh đạo mới của Đảng phải dựa vào trí tuệ của cả nước để hình thành được một chiến lược tổng thể cho cải cách chính trị và những việc phải làm đầu tiên từ nay đến năm 2020, mở đường cho sự nghiệp cải cách trong những năm tiếp theo, chứ không phải là chốt lại như trong Nghị quyết Đại hội XII “…không sửa đổi, bổ sung Điều lệ Đảng hiện hành.” 
Cái đích tối cao của cải cách chính trị là thực hiện bằng được quyền làm chủ đất nước của nhân dân và các quyền tự do, dân chủ của công dân. 
Nội dung cơ bản của cải cách là loại bỏ tình trạng hệ thống chính trị “3 trong 1” – Đảng, nhà nước, mặt trận – mà trong thực tế toàn bộ hệ thống chính trị chỉ là công cụ của quyền lực trong Đảng, để thực hiện đúng nghĩa xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đấy là nhà nước pháp quyền dân chủ trên nền tảng của kinh tế thị trường và xã hội dân sự. Hệ thống nhà nước này phải có các nhánh lập pháp, hành pháp, tư pháp được thiết kế đầy đủ, có trách nhiệm và quyền lực riêng biệt được phân công rõ rệt (chứ không phải nhánh này đứng trên nhánh kia)  theo quy định của Hiến pháp, cùng kiểm soát - giám sát lẫn nhau, và cùng liên đới chịu trách nhiệm trước cả nước về thực thi Hiến pháp với tính cách là bộ luật tối thượng của đất nước, ĐCSVN cần phấn đấu trở thành đảng cầm quyền đúng luật trong hệ thống nhà nước này. Vai trò lãnh đạo của Đảng là ở chỗ: Đảng có những quyết định cần thiết và chủ động đứng ra phát huy trí tuệ và nghị lực cả nước xây dựng bằng được hệ thống nhà nước pháp quyền dân chủ này, làm mọi việc có thể bảo đảm và bảo vệ sự nghiệp xây dựng thành công trong hòa bình một hệ thống nhà nước như vậy cho đất nước. (Cũng như trước đây: Vai trò lãnh đạo của Đảng là phát huy sức mạnh cả nước đấu tranh giành độc lập thống nhất đất nước, song cái không nên làm là có độc lập thống nhất Đảng lại làm chủ luôn đất nước!) . Cải cách chính trị như thế chính là con đường giải phóng mọi tiềm năng của đất nước để sớm vươn lên trở thành nước phát triển. Đó cũng là con đường giải phóng ĐCSVN hôm nay khỏi những tha hóa trầm kha và lấy lại chính danh của mình. 
Những việc có thể làm ngay trước mắt là thực hiện ngay những quyền tự do, dân chủ của công dân như đã ghi trong Hiến pháp 2013 – nhất là: quyền tự do ngôn luận, quyền lập hội, quyền biểu tình.., nghiêm cấm và nghiêm trị những hành vi trấn áp phi pháp, thả ngay những người bất đồng chính kiến đang bị giam giữ.
Ngay trước mắt, một thử thách nghiêm khắc để chứng minh tính chính danh của Đảng, và cũng là một trách nhiệm rất quan trọng của ban lãnh đạo mới nhiệm kỳ khóa XII đối với đất nước, đó là việc bầu cử Quốc hội mới sắp tới.  
Làm thế nào để có được một Quốc hội với đúng nghĩa là người đại diện cao nhất quyền lực của nhân dân, loại bỏ tình trạng “Đảng cử dân bầu”? Phải thay đổi những gì để chấm dứt trạng thái trên thực tế Quốc hội là cơ quan cấp dưới của Bộ Chính trị (trên thực tế là cơ quan hợp pháp hóa và thực thi quyền lực Đảng)  mà không ít các đại biểu Quốc hội đã công khai nói ra như vậy trong các buổi họp Quốc hội cũng như trước công luận? Đảng và hệ thống chính trị phải tự thay đổi như thế nào thì mới có được một Quốc hội đúng nghĩa?.. Tránh né cải cách, tránh né những câu hỏi này, Ủy ban bầu cử quốc hội mới và những thứ kèm theo cũng chỉ là để trang trí. 
Song lại có ý kiến: Trung Quốc không cải cách chính trị, nên Việt Nam không làm được, không dám làm, dù có muốn cũng không được. 
Sự thật hiển nhiên là vấn đề Trung Quốc là một áp lực rất lớn chống lại cải cách ở Việt Nam, Trung Quốc có trong tay nhiều phương tiện có thể phá vỡ mọi nỗ lực cải cách ở Việt Nam – kể cả một khi cải cách được tiến hành (tuy khập khiễng, song vấn đề “Krym” và những diễn biến ở Ukraina là một  trong những ví dụ điển hình đáng tham khảo) . Song những gì đang diễn ra ở Myanmar, ở Đài Loan đang chứng minh: Không phải Trung Quốc muốn gì cũng được. 
Chờ Trung Quốc cải cách thì ta mới dám cải cách không khác gì chờ Trung Quốc bỏ mục tiêu siêu cường số một thế giới!  
Nước ta đã chờ như thế 40 năm kể từ 30-04-1975. Đã chờ như thế từ Hội nghị Thành Đô. Lấy cả kiên định con đường độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội để biện minh cho cái chờ này. Ghi vào Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc 06-11-2015 “hai bên coi sự phát triển của nước này là cơ hội phát triển cho nước kia” để cầm chắc cho cái chờ này. Song chờ như thế nước ta đã mất gì, được gì suốt 40 năm qua? Chẳng lẽ được sự lệ thuộc ngày càng trầm trọng vào Trung Quốc và sự phát triển èo uột? Được sự yên ổn để họp Đại hội XII… Còn mất thì sao? Nhiều lắm! Cái mất lớn nhất là con đường phát triển của đất nước đang bị chính cái chờ này của ta chặn đứng! Không thể đổ mọi tội cho Trung Quốc. 
Một sự thật nghiêm trọng khác là càng chờ như vậy, Trung Quốc càng lấn tới, và nước ta ngày càng lực bất tòng tâm trong nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi và chủ quyền mọi mặt của quốc gia. Bởi vì chờ như vậy, lòng dân ngày càng mất tin tưởng vào Đảng và chế độ, sự giằng xé trong nội tình đất nước gia tăng do sự tha hóa của hệ thống chính trị đang gia tăng, ngay trong nội bộ Đảng cũng ngày càng phân hóa. Chờ như vậy lòng dân càng phân tán, không thể có hòa hợp hòa giải dân tộc, không thể hội tụ và phát huy sức mạnh dân tộc. Chờ như vậy trong nước thì không thể nhân tâm thu về một mối, bên ngoài thì không thu phục được lòng người để nước ta có thể sống được trong cái trật tự thế giới ngày càng ác nghiệt này! Chờ như vậy là cam chịu sống trong cái bóng của Trung Quốc. Sống trong cái bóng của Trung Quốc, lịch sử quan hệ Việt Nam – Trung Quốc 2000 năm qua cho thấy Việt Nam mất nhiều hơn được. 70 năm qua càng như thế… 
Đúng ra phải đặt vấn đề ngược lại: Không phải vì Trung Quốc nên phải chờ! Mà chính là vì Trung Quốc nên càng không được chờ! Dám như vậy mới có lối ra! Cả nước một lòng, từ trong Đảng ra và từ xã hội dân sự, Đảng chủ động đề xướng và tạo mọi điều kiện cho cải cách và bảo vệ cải cách. Như thế chẳng có gì phải chờ! Việt Nam muốn chính là Việt Nam thì không cần chờ, không được chờ! 
         Bây giờ mọi ghế đã yên vị, công việc cấp bách hơn bao giờ hết của toàn ban lãnh đạo mới là thực hiện dân chủ để bàn bạc thực lòng và hết lòng với cả nước mọi quyết sách cho mọi vấn đề trọng đại của cải cách chính trị và của phát triển đất nước đang đặt ra, nhất là những giải pháp cho những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nóng bỏng nhằm đẩy mạnh quá trình kinh tế đang phục hồi và tạo ra được những bước đi xuôn xẻ vào thời kỳ hội nhập mới (TTP, AEC, các FTAs mới…) , làm tốt nhiệm vụ là đối tác chiến lược và đối tác toàn diện ta đã cam kết...  
Cần mở rộng dân chủ trong Đảng, trong hệ thống chính trị của đất nước, trong bộ máy chính quyền, trong xã hội dân sự, trong các trường – viện làm công tác nghiên cứu và giảng dậy, trong hệ thống tuyên truyền – báo chí, trong các đơn vị kinh tế… để bàn bạc với nhau thực lòng và hết lòng, trước hết nhằm xác định đúng các vấn đề phải xử lý và các giải pháp.  
Dứt khoát nên vứt bỏ và phê phán nghiêm khắc nếp nghĩ, nói và làm theo cái gọi là “quán triệt nghị quyết, đưa nghị quyết vào cuộc sống”, mà nên nhìn thẳng vào đòi hỏi: Sự thật trong cuộc sống đang đặt ra những vấn đề gì? Phải giải quyết thế nào?.. Dứt khóat cần vứt bỏ việc dùng bạo lực và dối trá để khỏa lấp các sai trái, trấn áp những ý kiến trái chiều, những bất đồng, những phản đối bất công... Dân chủ, công khai minh bạch, trách nhiệm giải trình phải trở thành những tiêu chí bắt buộc của mọi hoạt động của các tổ chức, cơ quan trong mọi lĩnh vực của đất nước… Đấy là những việc rất cụ thể, đầu tiên, khả thi, có thể làm ngay được cho việc mở ra một chương mới của lịch sử đất nước. 
Xin có một lời dành riêng cho tất cả những ai đang làm việc trong hệ thống tuyên giáo, truyền thông và trong gần 800 báo chí của cả nước: Xin hãy làm tất cả với sự trung thực và ngoan cường của mình dấy lên trong cả nước tinh thần: Tổ quốc Việt Nam trên hết! Và xin từng người hãy cố vượt qua cái sợ riêng trong mình để gìn giữ lương tâm người cầm bút, người chiến sỹ trên mặt trận tinh thần của đất nước!  
Kết thúc bài này, xin đề nghị ban lãnh đạo mới của Đảng nhiệm kỳ khóa XII huy động trí tuệ trong Đảng và cả nước làm rõ câu hỏi: 
-      “Thừa nhận Đại hội XII là thất bại chung của cả nước, một thất bại của Việt Nam” là một luận điệu phản động, hay là một sự thật cần nhìn thẳng vào để tìm lối ra cho đất nước?
  
Hà nội – Võng Thị, ngày 03-02-2016

VUI BUỒN CHUYỆN TẾT NĂM NAY Ở VIỆT NAM

VUI BUỒN CHUYỆN TẾT NĂM NAY Ở VIỆT NAM

Ngày Tết Nguyên Đán ở VN bao giờ cũng là ngày quan trọng nhất đối với các “đại gia” cũng như với người dân nghèo khó, dù “rách quanh năm” cũng phải có một tí gì đó gọi là Tết cho gia đình, con cháu đầm ấm vui vẻ. Dân gian có câu: “Đói ngày giỗ cha, phải lo ba ngày Tết”.

Vào dịp này một số lớn gia đình người Việt ở hải ngoại hẳn là nhớ đến cái Tết ở quê nhà.


Nhiều vị bận đi làm không có nhiều thì giờ ôn lại những cái Tết ở VN. Tôi điểm lại một số phong tục của ngày Tết ở VN để bạn đọc có dịp nhớ lại và vài chuyện vui buồn gần đây nhất để bạn đọc cùng vui xuân.


Chuẩn bị Tết


Tết của người Việt vào ngày mồng 1 tháng 1 âm lịch hằng năm. Năm nay có tháng chạp thiếu nên mới ngày 29 đã là 30 Tết và là ngày chủ nhật 07-2-2016. Dân gian quan niệm rằng trước khi đến ngày Tết chính thức, tất cả mọi thứ đều phải chuẩn bị thật đầy đủ, mong khởi đầu một năm mới may mắn và thành công. Do vậy, sau ngày 23 tháng chạp là ngày đưa “Ông Táo về trời”, bước vào bất cứ nhà nào của người Việt cũng sẽ thấy ngay không khí chuẩn bị Tết nhộn nhịp, tất bật.


Năm nào cũng vậy, cứ đến Tết người người đều trang hoàng nhà cửa, dọn dẹp lau chùi sạch sẽ theo đúng nghĩa năm mới cái gì cũng phải mới. Trên tường treo những bức tranh Tết hoặc câu đối, trong nhà thì đặt những lọ hoa đầy màu sắc, đặc biệt nhắc đến Tết thì không thể không nhắc đến hoa Đào (Miền Bắc) - Hoa Mai (miền Nam). Đôi nơi vẫn còn tục lệ múa lân nhất là ở vài Thành Phố lớn.


Ở Sài Gòn năm nào cũng tổ chức “đường hoa”. Nhưng 2 năm nay tôi không bước chân tới vì cứ nghĩ năm nào cũng vậy thôi, xem mãi chán rồi. Có khác chăng năm nay là năm con khỉ nên chắc là nhiều khỉ lắm. Vả lại mỗi lần đến đây lại nhắc nhớ tới những kỷ niệm cũ với người tình, với bạn bè xưa kia, càng buồn thêm.


Nét đặc trưng của Tết Việt là mâm cỗ trên bàn thờ vào tối giao thừa, ngoài các loại bánh mứt còn có mâm ngũ quả với các loại trái cây đặc trưng của người Việt như Mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, thơm được bày lên trang trọng và đẹp mắt thể hiện mong muốn của gia chủ cho một năm mới với những điều may mắn, tốt lành. Vào ngày Tết còn có tục thờ cúng tổ tiên, hái lộc đầu xuân, xông đất đầu năm, chúc Tết, lì xì mừng tuổi.


Năm 2016 là năm Bình Thân (năm con khỉ), nên các đồng tiền có in hình con vật này cũng có giá hơn. Năm nay đồng xu in hình con khỉ của Australia và tiền khỉ may mắn của Indonesia cũng được “nhập cảng” vào VN và đã bán được khá nhiều.


Bên cạnh đó người Việt rất xem trọng lễ nghĩa, nên trước Tết mọi người thường dành tặng nhau những món quà Tết thể hiện sự quan tâm, lòng biết ơn, tôn kính với gia đình và bạn bè. Các nhà chuyên làm quà Tết tha hồ hốt bạc.


Quà Tết có nhiều loại, nhiều “kiểu”


Các đại gia đua nhau kiếm món quà Tết độc đáo tặng những nơi thường giao thiệp nhất là với các cơ quan và các quan chức họ thường phải nhờ vả. Họ không ngần ngại mua quả phật thủ đẹp nhất với giá trên dưới 10 triệu đồng, nhưng những quả có giá cao như thế thường rất hiếm, hàng chục ha mới tìm được 1 quả. Hoặc có những đại gia hay đại quan chơi ngông mua chậu địa lan Trần Mộng 100 cành nở cùng lúc vào đúng dịp Tết đã được một đại gia mua với giá 70 triệu đồng. Có đại gia bỏ trăm triệu mua cây bạch đào chơi Tết.


Nhiều tay chơi quan niệm, có được một gốc đào cổ thụ với dáng độc là năm mới sẽ gặp nhiều may mắn, phát lộc trong làm ăn. Vì thế, dù bị “hét giá” lên tới cả trăm triệu nhưng rất nhiều người vẫn sẵn sàng móc hầu bao. Một con gà Đông Tảo cũng được trả giá tới 70 triệu đồng. Thế mới là của “hiếm quý” mua được sự hài lòng của các “đối tác”.


Các đại quan cũng bận rộn không kém, chuẩn bị nhận quà Tết và tất nhiên phải chu đáo với các quan trên mình. Các công ty dù là vốn nhà nước hay của tư nhân cũng phải chuẩn bị một món quà Tết cho các nhân viên của mình.


Tất cả như đã thành một thứ luật bất thành văn nhưng mọi nơi đều rộn ràng chuẩn bị cho tục lệ bất thành văn này. Dù cho công ty có thua lỗ cũng phải tìm cách “thưởng” cho nhân viên kẻo mang tiếng với các công ty bạn, như thế chẳng khác nào “tự vạch áo cho người xem lưng” công ty của mình… sắp phá sản.


Năm nay kiểu thưởng Tết ở VN cũng có nhiều chuyện lạ. Sau một năm làm việc, cống hiến, hẳn người lao động nào cũng hào hứng chờ đợi thưởng Tết từ doanh nghiệp. Nhưng không ít người phải “ngậm ngùi” khi trông thấy phần thưởng ấy. Mời bạn đọc hãy xem mấy kiểu thưởng Tết khá vui này.


Nhận quà Tết mà muốn dở khóc, dở cười!


Báo Giao thông ngày 02/1 cho biết, thay vì sử dụng tiền mặt như thông thường, nhiều doanh nghiệp sử dụng tương ớt, quần đùi... để thưởng cho nhân viên sau một năm làm việc.


Một công ty vật liệu xây dựng ở Thái Nguyên thưởng Tết cho mỗi nhân viên 200 viên gạch. Một cơ sở sản xuất hương (nhang thắp) ở Đan Phương- Hà Nội thưởng Tết bằng 100 ngàn đồng và… các loại nhang.


Độc đáo không kém là một công ty dệt may quận Hoàng Mai- HN thưởng Tết mỗi nhân viên tới 70 chiếc quần đùi. Và thế là Tết này,với thời tiết giá rét đặc trưng của mùa đông Hà Nội, 70 chiếc quần đùi. Có lẽ họ… sử dụng luân phiên tận hơn hai tháng sau Tết mà không phải giặt giũ! Một độc giả đã viết: Thế là “anh mặc, em mặc, con chúng ta mặc, và biết đâu… hàng xóm cũng mặc quần đùi đi chúc Tết luôn”.


Nhưng hài hước nhất, là công ty truyền thông T.V thưởng tới 30 bịch giấy vệ sinh cho nhân viên ăn Tết. Còn một công ty ở TP. Sài Gòn lại thưởng Tết cho mỗi nhân viên một thùng tương ớt. Riêng lãnh đạo thưởng lớn hơn, mỗi người hai thùng. Đúng là ăn Tết… cay hơn ớt! Không biết nên mếu hay nên cười!


Quần đùi, giấy vệ sinh, gạch men tuy “kỳ cục” thật đấy nhưng xem ra còn dùng được hoặc đem cho thoải mái được, chứ công ty chuyên sản xuất… dung dịch vệ sinh phụ nữ, bao cao su mà thưởng Tết bằng sản phẩm thì người nhận chỉ có nước đem bán hoặc vứt xó (nếu bán chạy thì công ty đã không “đổ” cho nhân viên).


Vẫn có những công ty thưởng Tết ai cũng phải thèm


Tuy nhiên, bên cạnh các công ty thưởng gạch, nhang thắp, tương ớt, quần đùi, giấy vệ sinh…, thì cũng có những công ty thưởng Tết rất lớn, trong dịp Tết Âm lịch. Tỷ như có công ty tại Q. Bình Tân (Saigon) công bố mức thưởng Tết cao nhất đến 320 triệu đồng/ người (Theo báo Người Lao Động). Nhưng chưa ăn thua gì, so với mức thưởng 600 triệu đồng, thuộc về một DN tư nhân. Quả là mức thưởng Tết “khủng” ai cũng phải thèm. Nhưng thật ra số thưởng tết “khủng” này chĩ dành cho các sếp.


Các ông chủ ngoài việc tôn trọng công sức mồ hôi nước mắt của người lao động còn là một sự khôn ngoan khiến người làm công, làm giàu cho mình càng phải cố sức làm việc hơn nữa.


Mười năm không phát hiện tham nhũng


Mới bước sang đầu năm dương lịch 2016, nghe cái tin “mười năm không phát hiện tham nhũng”, mấy anh dân đen mừng húm, thế là nước VN chúng tôi tham nhũng chết ráo cả rồi. Nhưng thật ra vừa đọc xong bản tin này, người dân lại thở dài bởi họ biết chắc rằng tham nhũng ở cái thời đại này không bao giờ hết. Nó chỉ đi trốn là tài nhất. Trốn ngay trong cơ quan nhà nước, trốn ra nước ngoài, trốn trong xó nhà bà con họ hàng nội ngoại, trốn về quê đuổi gà nhưng vẫn có hàng ngàn tỉ trong ngân hàng.


Vậy mà người dân đọc số báo đầu tiên của năm mới, nhiều bạn đọc ngớ người khi “vấp” phải thông tin từ UBND tỉnh Khánh Hòa về việc 10 năm qua tỉnh này không phát hiện cán bộ nào nhận quà.(Theo Báo Người Lao động ngày 1-1-2016)


Nghe cứ như chuyện đùa chứ ai nghĩ rằng thông tin này được long trọng đưa ra tại Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Luật phòng chống tham nhũng do UBND tỉnh Khánh Hòa tổ chức ngày 31-12vừa qua.


Không phải chỉ có tỉnh Khánh Hòa mà cả UBND Hà Nội cũng có báo cáo: 'Không có cán bộ nào nhận quà sai quy định”.


Báo cáo việc cán bộ, công chức, viên chức nộp lại quà tặng, chính quyền Hà Nội thông tin: “Năm 2015, các đơn vị báo cáo không có trường hợp nào vi phạm trong nhận, tặng quà theo quyết định 64 của Thủ tướng”.


Và “Trong nhiều năm, Hà Nội không phát hiện trường hợp nào vi phạm việc tặng và nhận quà. Tương tự, không có trường hợp nào phải xác minh, kết luận về việc kê khai tài sản thu nhập không trung thực”.


Nghe muốn phát sốt vì những cái báo cáo quá “sạch sẽ” ấy, người dân bèn phản ứng ngay trên các báo. Họ tức giận và thẳng thừng đưa ra nhận xét của mình.


Tham nhũng đầy ra đấy, chỉ có người mù mới không nhìn thấy


- Bạn đọc Nguyễn Thế Tòng, một người dân của Khánh Hòa, thốt lên: “Khó tin!”. Chẳng biết bằng “phương pháp, nghiệp vụ” gì mà tỉnh này có thể theo dõi được từng cán bộ của mình để đưa ra một kết luận chủ quan như thế. Còn nếu để cán bộ tự khai thì điều này còn dị hợm hơn và một hội nghị như thế chẳng cần phải tổ chức để khỏi tốn tiền của, thời gian... Và quan trọng hơn để người dân khỏi thấy mình bị xem thường”.


Nhiều bạn đọc phản hồi qua Báo Người Lao Động rằng, xây một căn nhà cấp 4 thôi, vừa đổ đống đất là có các “anh” xuống hỏi thăm ngay. Không có quà thì chẳng yên thân. Xin giấy phép xây dựng cũng phải đủ kiểu “tình thương mến thương”, rồi kiểm tra các kiểu, môi trường, điện nước... “Chỉ có người mù mới không thấy những chuyện như thế. Mà người mù không thấy thì cũng nghe người dân ta thán hằng ngày”.


Ngay những số liệu đưa ra từ hội nghị cũng đã mâu thuẫn với những gì lãnh đạo tỉnh này công bố. 10 năm qua, tỉnh thực hiện gần 1.000 cuộc thanh tra, phát hiện sai phạm liên quan đến tham nhũng hơn 269 tỉ đồng và gần 670 ha đất các loại. 71 bị can, bị cáo tham nhũng bị xử lý... Gần đây nhất chuyện một ông cán bộ Hải Quan TP Sài Gòn mới đi vắng vài ngày thế mà số phong bì hơn 60 cái (chưa mở) được ông gom bỏ vào một túi ny-lông xách mang ra để về nhà thì bị các trinh sát của Cục A84 ập vào bắt giữ. Số tiền này tổng cộng gần 1 tỷ đồng được các doanh nghiệp buộc phải chung chi trong 5 ngày, tương đương khoảng thời gian ông du hí bên Trung Quốc. (Tôi đã tường thuật chi tiết và phân tích việc này trong bài tuần trước).


Tham nhũng đầy ra đó chứ phải ít đâu mà đưa ra số liệu “trong sạch” thế! Ai tin được. Đầu năm đã phải nghe những “báo cáo báo cầy giả” như thế thì sui cả năm. Và một nguy cơ khác là kẻ tham nhũng sẽ xử người chống tham nhũng như ông Đại biểu Trương Trọng Nghĩa (TP Sài Gòn) đưa ra cảnh báo: “Người tham nhũng sẽ xử lý người chống tham nhũng chứ không phải là ngược lại …”,


Rõ ràng nguy cơ nằm ở tất cả các cơ quan quyền lực nhà nước. Bọn tham nhũng rất xảo quyệt, chúng kéo bè kết cánh bảo vệ lẫn nhau, bóp chết người dân lương thiện chống tham nhũng. Vậy ai còn dại gì chống tham nhũng nữa, bỗng dưng chui đầu vào hang hùm miệng sói. Im lặng và chịu đựng, chịu đựng cho đến bao giờ?!
Vậy người VN nhìn thấy gì trong năm Con Khỉ này? Nhìn thấy khỉ nhiều hơn người chăng?






Văn Quang