Sep 4, 2014

Nói thật về chủ nghĩa cộng sản

Nói thật về chủ nghĩa cộng sản

Lee Edwards  /  Ģirts Vikmanis - Latvijas Avizeb

 (Pateikt patiesību par komunismu. Saruna ar fonda “Komunisma upuri” vadītāju Lī Edvardu)

Phạm Nguyên Trường dịch qua bản tiếng Nga tại địa chỉ: inosmi.ru

08/11/2013




 Lee Edwards, người đồng sáng lập và Chủ tịch của the Victims of Communism Memorial Foundation. Nguồn: Latvijas Avizeb




Trong thời gian ở thăm Latvia, ông Lee Edwards, chủ tịch Quỹ tưởng niệm các nạn chân của chủ nghĩa cộng sản, đã dành cho tờ Latvijas Avizeb buổi phỏng vấn dưới đây.

Xin nói thêm rằng tổ chức The Victims of Communism Memorial Foundation (Quỹ Tưởng niệm các Nạn nhân của Chủ nghĩa Cộng sản), do ông lãnh đạo, đang quyên góp tiền để dựng ở Washington đài tưởng niệm các nạn nhân của ý thức hệ cộng sản.



Ģirts Vikmanis : Các ông có ý định xây dựng một đài tưởng niệm các nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản ở Washington. Tại sao hiện nay đây là công việc quan trọng?

Lee Edwards : Chúng ta có thể nói đến 100 triệu nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản trên thế giới. Đây là số liệu từ tác phẩm của sáu nhà trí thức Pháp, có tên là Chúa trời đã thua, do nhà xuất bản của Đại học Harvard ấn hành. Bức tường Berlin sụp đổ cách đây 20 năm, nhiều người nghĩ rằng chủ nghĩa cộng sản đã bị đánh bại, và chúng ta có thể chắc chắn rằng nó sẽ không bao giờ quay trở lại nữa. Nhưng, không được quên các nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản. Năm 2007, chúng tôi đã khánh thành bức tượng tưởng niệm các nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản tại Washington. Đây là hình ảnh của Nữ thần dân chủ – một bức tượng như thế đã từng đứng ở quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh (Trung Quốc). Chúng tôi đã tạo ra một bảo tàng ảo về các nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản, và vừa mới đây đã viết xong cuốn sách giáo khoa cho các trường trung học. Quỹ tưởng niệm các nạn chân của chủ nghĩa cộng sản đang hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu di sản, nghiên cứu quá khứ, hiện tại và giáo dục. Trên thế giới vẫn còn năm nước cộng sản, và sự áp bức của các chế độ này cũng vẫn khốc liệt như trước đây. Về bức tượng, phải nói rằng hàng năm các nhà ngoại giao của nhiều nước vẫn đến thăm, cả những người đã từng là nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản như người Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên và Cuba nữa. Luật về tổ chức của chúng tôi được thông qua dưới trào của tổng thống Dân chủ, Bill Clinton; còn tượng đài khánh thành khi tổng thống là người thuộc đảng Cộng hòa, George Walker Bush, nắm quyền. Một cách nữa để chúng ta tưởng nhớ đến tác hại của chủ nghĩa cộng sản là huy chương Truman – Reagan, tặng cho những người có thành tích trong sự nghiệp chống cộng. Tên của huy chương có ý nghĩa biểu tượng vì chiến tranh lạnh bắt đầu dưới trào đảng viên Dân chủ Harry Truman, còn Ronald Reagan, đảng viên Cộng hòa, đã làm được rất nhiều trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa cộng sản. Giải được trao lần đầu tiên năm 1999, và một trong những người nhận đầu tiên là nhà lãnh đạo phong trào Sąjūdis, đòi độc lập cho Litva, là ông Vytautas Landsbergis.



Ģirts Vikmanis :  Điều gì làm cho các nước vùng Baltic trở thành đặc biệt, nhất là trong bối cảnh của quá khứ cộng sản?

Lee Edwards : Hoa Kỳ đã có mối liên hệ đặc biệt với các nước vùng Baltic, khi Liên Xô chiếm những nước này, chúng tôi không công nhận việc chiếm đóng và sáp nhập đó. Chính phủ Mỹ đã đưa ra tuyên bố, gọi là tuyên bố Sumner Welles. Trong bảo tàng, chúng tôi phải nói với mọi người những câu chuyện dễ hiểu, và đối với các nước vùng Baltic thì đấy là phong trào Cách mạng hát và Con đường Baltic. Tôi đã đến thăm Bảo tàng Chiếm đóng ở Riga – Ông Nollendorfs đã làm được một công việc tuyệt vời và chúng tôi cũng sẽ làm như vậy, chúng tôi được bảo tàng của các bạn khích lệ rất nhiều. Sẽ có những cuộc triển lãm dành cho từng nước, thí dụ như Nga, Trung Quốc, sẽ một cuộc triển lãm đặc biệt dành cho các nước vùng Baltic. Ngoài ra còn có một phòng dành tưởng niệm những anh hùng chống cộng nữa. Chúng tôi có thể dựng trong bảo tàng một trại tù (Gulag) với những chiếc giường gỗ, và khi có người vào thì nhiệt độ sẽ tự động giảm xuống. Chúng tôi muốn trưng bày cả những toa tầu dùng để trục xuất người tới Siberia. Chúng tôi cũng muốn đặt một tháp canh như trên Bức tường Berlin nữa.



Ģirts Vikmanis : Xây bảo tàng như vậy thì cần bao nhiêu tiền và kiếm ở đâu?

Lee Edwards : Theo luật pháp Hoa Kỳ, chúng ta không thể yêu cầu nhà nước tài trợ cho đài tưởng niệm đó. Đài tưởng niệm các nạn nhân của vụ diệt chủng người Do Thái (Holocaust) ở Washington cũng được xây dựng bằng nguồn vốn tư nhân. Vì vậy, chúng tôi hy vọng sẽ được các tổ chức xã hội hỗ trợ. Có thể chúng tôi sẽ yêu cầu chính phủ Mỹ hỗ trợ địa điểm đặt đài tưởng niệm, cũng như thu hút tài trợ từ nước ngoài. Hungary đã trích ra một triệu, chúng tôi sẽ sử dụng để tạo ra một nhóm công tác và cho chiến dịch quyên góp. Cần tổng cộng 100 triệu USD, một nửa làm bảo tàng, một nửa cho tổ chức làm công việc giáo dục. Mục tiêu của chúng tôi là bắt đầu xây dựng vào năm 2017, kỷ niệm 100 năm cuộc Cách mạng Bolshevik ở Nga.



Ģirts Vikmanis : Khổ đau có thể được đo không chỉ bằng số nạn nhân, mà còn có thể đo bằng kinh tế và xã hội …

Lee Edwards : Chủ nghĩa cộng sản là ngụy khoa học, được ngụy trang như một hệ thống kinh tế và được thực hiện bằng lực lượng võ trang. Nó được xây dựng trên nền cát ướt. Chủ nghĩa cộng sản đã gây ra những hậu quả về chính trị, kinh tế và chiến lược. Không có cộng sản thì chúng tôi đã không có các cuộc chiến tranh Việt Nam và Triều Tiên rồi. Nếu năm 1939 không có Hiệp ước Molotov- Ribbentrop thì đã không có Chiến tranh thế giới II. Chúng ta đang chứng kiến hậu quả kinh tế trong các nước vùng Baltic và Trung Âu – họ đã bị chủ nghĩa cộng sản hành hạ suốt mấy thập kỉ. Trong khi đó, Tây Âu kinh tế phát triển tốt hơn. Tất cả những người sống trong thế kỷ XX đều khổ vì chủ nghĩa cộng sản, và chúng ta phải dạy cho mọi người như thế.



Ģirts Vikmanis : Tại Latvia, các nhà khoa học đã tính được những thiệt hại do Liên Xô gây ra trong thời kỳ chiếm đóng. Có nên yêu cầu Nga bồi thường không?

Lee Edwards : Tôi không bình luận về công việc nội bộ của Latvia, đây là vấn đề của nền chính trị địa phương.



Ģirts Vikmanis : Có thể coi chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản là như nhau không?

Lee Edwards : Holocaust là độc ác nhất. Chủ nghĩa cộng sản – cũng ác, nhưng chủ nghĩa phát xít là sự độc ác đặc biệt, không thể nào diễn tả nổi. Tôi xin lưu ý rằng Nghị viện châu Âu đã chuẩn bị một nghị quyết bày tỏ quan điểm chính trị cả về chủ nghĩa phát xít lẫn chủ nghĩa cộng sản.



Ģirts Vikmanis : Ở Latvia, giáo viên các trường dành cho học sinh nói tiếng Nga đưa trẻ em đến cái gọi là Tượng đài Chiến thắng và kể cho chúng nghe phiên bản của mình về lịch sử. Giải quyết vấn đề này như thế nào?

Lee Edwards : Trong chế độ dân chủ, không thể cấm người khác nói; nhưng cùng với quyền nói, còn có trách nhiệm nói sự thật nữa. Bộ Giáo dục, Bộ Quốc phòng và các giáo viên phải làm chuyện này. Nói rằng Latvia tự nguyện tham gia Liên Xô là không đúng. Những thứ tôi nhìn thấy trong bảo tàng chiếm đóng là đúng.



Ģirts Vikmanis : Người Mỹ đương đại theo ông là như thế nào, họ có hiểu về chủ nghĩa cộng sản và di sản của hệ tư tưởng của nó không?

Lee Edwards : Không phải tất cả người Mỹ đều biết chuyện đó. Khi chúng tôi viết sách cho nhà trường, bao gồm chủ nghĩa cộng sản của Marx, Mao và cho đến ngày nay, chúng tôi gửi cho giáo viên khắp cả nước. Họ cảm thấy thú vị. Cần dạy không chỉ học sinh về những vấn đề của chủ nghĩa cộng sản, mà còn phải dạy cả giáo viên nữa.



Ģirts Vikmanis : Ông cho rằng ai là những người anh hùng trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa cộng sản?

Lee Edwards : Đó là Vaclav Havel, Lech Walesa, Andrei Sakharov, Giáo hoàng Gioan Phaolô II – đấy là bốn chiến sĩ tuyệt vời, nhưng còn nhiều người khác nữa.



Ģirts Vikmanis : Việc bổ nhiệm Karol Wojtyla làm Giáo Hoàng có phải là bước đi mang tính chiến thuật của Vatican trong cuộc chiến chống chủ nghĩa cộng sản hay không?

Lee Edwards : Ngài là một linh mục và hồng y sống dưới chế độ cộng sản, và đã kinh nghiệm tất cả ngay trên cơ thể của mình. Chuyến đi đầu tiên của Ngài tới Ba Lan sau khi trở thành Giáo Hoàng là có tính biểu tượng, trong thời gian đó Ngài nhấn mạnh: “Đừng sợ.” Câu nói đó đã khuyến khích mọi người, phong trào “Đoàn kết” được thành lập. Ba Lan trở thành tấm gương. Âm mưu ám sát Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cho thấy ảnh hưởng chính trị của Ngài lớn đến mức nào.



Ģirts Vikmanis : Thách thức đối với chủ nghĩa cộng sản hiện nay là gì?

Lee Edwards : Cho đến nay, còn năm nước cộng sản. Với bốn nước là Lào, Việt Nam, Trung Quốc và Cuba, chúng ta có thể làm việc: nói về vi phạm nhân quyền và áp dụng những biện pháp trừng phạt kinh tế. Có thể trao giải thưởng cho các nhà hoạt động. Bắc Triều Tiên là chuyện khác, đấy là nhà nước toàn trị tách biệt hẳn với thế giới. Thách thức lớn nhất hiện nay là giáo dục. Nhờ công nghệ hiện đại, nói sự thật dễ dàng hơn trước rất nhiều. Trang web của chúng tôi có hàng ngàn người đọc, trong đó có người Trung Quốc, người Việt Nam và người Cuba. Ngay cả Trung Quốc, với 80 triệu đảng viên, cũng không thể có ảnh hưởng tới toàn bộ dân số là 1,3 tỷ người. Tự do sẽ vượt qua tất cả.



Cuộc trò chuyện do nhà báo Ģirts Vikmanis thực hiện.



Xem video cuộc phỏng vấn : 




Nguồn bản gốc: Pateikt patiesību par komunismu



Phạm Nguyên Trường dịch

Nguồn bản dịch: phamnguyentruong.blogspot.com


60 năm Sài Gòn trong tôi

60 năm Sài Gòn trong tôi

 
Hai tuần nay người Sài Gòn xôn xao về một số công trình xưa cũ sẽ bị phá bỏ lấy đất làm tàu điện ngầm. Rầm rộ nhất là khu thương xá Tax đã bị “bao vây” bởi những hàng rào chắn chạy dài và tất cả các cửa hàng trong thương xá này phải dời đi vào tháng 10 này để làm một siêu thị 40 tầng văn minh hơn.
Văn Quang – viết từ Sài Gòn


Tượng đài Thủy Quân Lục Chiến giữa công viên Sài Gòn trước năm 1975 nay đã không còn. Văn Quang viết: “Tôi đứng trước Nhà Hát Thành Phố nhìn cảnh “vườn không nhà trống” đó mà ngậm ngùi nhớ tới pho tượng Thủy Quân Lục Chiến sừng sững đứng bảo vệ thành phố ngày nào, và nhớ tới những đồng đội TQLC đã ngã xuống hoặc giờ này đã ở khắp phương trời xa.
 
‘Nhưng với tôi, Sài Gòn vẫn là Sài Gòn từ trong tâm thức mình, từ trong tận cùng tim óc mình. Thế là đủ và tôi lại phải sống cũng như những người Sài Gòn khác, bất chấp gian khổ.’
Hai tuần nay người Sài Gòn xôn xao về một số công trình xưa cũ sẽ bị phá bỏ lấy đất làm tàu điện ngầm. Rầm rộ nhất là khu thương xá Tax đã bị “bao vây” bởi những hàng rào chắn chạy dài và tất cả các cửa hàng trong thương xá này phải dời đi vào tháng 10 này để làm một siêu thị 40 tầng văn minh hơn. Hầu như cả thành phố xôn xao, người ta kéo đến mua hàng giảm giá đông như hội. Và cũng có nhiều người đến để nhìn lại chút kỷ niệm xưa với một công trình kiến trúc được xây dựng từ xa xưa khiến bất cứ ai dù chỉ sống ở thành phố này ít năm cũng cảm thấy tiếc nuối. Lứa tuổi già đã có từng hơn nửa thế kỷ với Sài Gòn bỗng nhận ra cái khu thương xá đó không chỉ gắn liền với thành phố mà còn gắn liền với cả gia đình mình.

Hầu như gia đình nào cũng đã từng đưa nhau vào đây mua sắm vài thứ đồ dùng lặt vặt hoặc chỉ dạo quanh, ăn một ly kem, uống một ly cà phê. Nỗi buồn vẩn vơ thật nhưng lại rất sâu sắc như người ta vừa lấy đi một phần đời mình. Bởi cái mất đi đã từng có những kỷ niệm với người thân quen không bao giờ tìm lại được nữa. Người mất kẻ còn, người ra đi, kẻ ở lại đã từng cùng nhau đến đấy.



Đường Lê Lợi phía Thương Xá TAX chỉ còn một lối đi nhỏ.
Và còn một số công trình gắn liền với Sài Gòn chẳng phải chỉ là biểu tượng mà còn là da thịt của một thành phố từng được vinh danh là “hòn ngọc viễn đông” này cũng sắp mãi mãi biến mất để nhường chỗ cho công trình ga tàu điện ngầm đầu tiên của tuyến Metro số 1 Bến Thành - Suối Tiên. Dẫu biết vạn vật đổi dời không có gì là vĩnh cửu cả nhưng cái gì quá thân quen mất đi cũng thấy lòng trống rỗng. Có khi chỉ một cửa hàng như quán cơm bình dân Bà Cả Đọi, tiệm cắt tóc Đàm, nước mía Viễn Đông… mất tích vĩnh viễn, thay vào đó là những tòa nhà chọc trời, những cửa hàng choáng lộn cũng thấy nó lạnh lùng xa lạ.


Văn Quang trước Thương Xá Tax ngày 25-8-2014.
Người còn ở trong nước xót xa, người Việt ở nước ngoài tiếc nuối, đó là điểm những người thân quen gặp nhau ở nỗi nhớ nhung tiếc nuối này. Tôi đã đọc khá nhiều bài viết từ nước ngoài và e mail của bạn bè chia sẻ nỗi hoài niệm đó. Như Thế Hải từ Hawaii đã mượn hai câu thơ bất hủ của Bà Huyện Thanh Quan, chia sẻ cùng bè bạn khắp nơi khi nhớ về những cái sắp mất đi của Sài Gòn: “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo. Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.”

Với một người còn ở lại như tôi, đã hơn nửa thế kỷ gắn bó với hòn ngọc viễn đông này, hai tuần nay càng thấy lòng hoài cổ dâng trào. Nhớ, nhớ đến từng chi tiết từ cái bước chân đầu tiên đặt lên đất Sài Thành, nhớ từng ngõ ngách, từng nhân vật thuộc về quá khứ ấy cho đến ngày nay. Mặc cho Sài Gòn đã có nhiều tang thương dâu biển, từ cái tên thành phố đến những con đường đã thay họ đổi tên, từ con người đến xã hội cho đến cả cái cách sống cũng đã khác xưa nhiều lắm. Chẳng trách khi xã hội đổi thay, người ta chép miệng than: “Trời làm một trận lăng nhăng, ông hạ xuống thằng, thằng nhảy lên ông, con đĩ đánh bồng nhảy lên bà lớn” cũng chẳng sai. Nhưng với tôi, Sài Gòn vẫn là Sài Gòn từ trong tâm thức mình, từ trong tận cùng tim óc mình. Thế là đủ và tôi lại phải sống cũng như những người Sài Gòn khác, bất chấp gian khổ. Có chăng chỉ là nỗi ngẩn ngơ khi những dấu tích xưa dần mất đi, chẳng bao giờ tìm lại được.



Thanh Saigon với hoài niệm “người xưa” trong ảnh quảng cáo trên vỉa hè bên hông Thương xá Tax.
Trong nỗi hoài niệm sâu sắc ấy nhiều buổi chiều đứng trong hành lang hẹp chung cư, nhìn lên khung trời cao, hướng về ánh đèn đêm mơ hồ của thành phố, tôi cố tưởng tượng lại đó vẫn là khung trời xưa, tôi nhớ lại những năm tháng dài tôi sống ở Sài Gòn. Ở đây không chỉ có cảnh quan mà còn có cả những nhân vật là bạn hoặc là người tôi đã từng gặp, từng quen, từng biết đến. Người ở đâu bây giờ? Có biết Sài Gòn của chúng ta đang có rất nhiều người đang nhớ đang mong các “bạn ta” không?



Tạm biệt Thương Xá Tax và hàng giảm giá.

Bước chân đầu tiên trên đất Sài Gòn
Thế mà 60 năm rồi đấy, kể từ ngày tôi mới đặt chân lên thành phố Sài Gòn. Tôi nhớ như in, ngày đầu tiên ấy. Cuối tháng 1 năm 1954, sau hai tháng học ở Trường Sĩ Quan Thủ Đức, ngày thứ bảy chúng tôi được đi phép ở Sài Gòn. Niềm mơ ước của tôi từ những ngày còn nhỏ ở trường trung học, ước gì có ngày mình được vào Sài Gòn. Niềm mơ ước ấy còn rộn ràng hơn khi khóa học sĩ quan khai giảng. Thủ Đức – Sài Gòn chỉ có hơn 10 cây số, tuy chỉ cách thành phố rất gần nhưng theo đúng chương trình khóa học, hai tháng sau chúng tôi mới được đi phép. Mấy anh “Bắc kỳ” nôn nao hỏi thăm mấy ông bạn “Nam Kỳ” về Sài Gòn. Từ cái xe taxi nó ra sao, đi thế nào, bởi hồi đó miền Bắc chưa hề có taxi, cho đến Chợ Lớn có những gì… Mấy ông bạn Nam Kỳ tha hồ tán dóc. Đấu óc tôi cứ lơ mơ về cái chuyến đi phép này.

Rồi ngày đi phép cũng đến, một nửa số sinh viên sĩ quan (SVSQ) đi phép mặc bộ tenue sortie là ủi thẳng tắp, áo bốn túi, chemise trắng tính, thắt cravate đen đàng hoàng, giầy đánh bóng lộn có thể soi gương được. Vô phúc quên cái gì là bị phạt ở lại ngay. Nhưng hầu như chưa có anh nào bị phạt. Đoàn xe GMC của trường chở chúng tôi chạy vèo vèo vào thành phố. Ôi cái cửa ngõ vào thành phố hồi đó chưa có gì lộng lẫy mà chúng tôi cũng mở to mắt ra nhìn. Đoàn xe “diễu” qua vài con phố rồi dừng lại trên đường Hai Bà Trưng (hồi đó còn gọi là đường Paul Blanchy), ngay phía sau Nhà Hát Lớn Thành Phố mà sau này là Trụ Sở Hạ Nghị Viện VNCH.


Tất cả các cửa hàng trong thương xá vắng hoe.
Cú nhảy từ sàn xe GMC xuống con đường Hai Bà Trưng là bước chân đầu tiên của tôi đến đất Sài Thành hoa lệ. Ông Hồ Trung Hậu là dân miền Nam chính hiệu, ông đã hứa hướng dẫn tôi đi chơi… cho khỏi “ngố”. Chúng tôi đi bộ vào con đường nhỏ bên hông Nhà Hát Thành Phố và khách sạn Continental, vòng ra trước bùng binh Catinat – Lê Lợi (hồi đó còn gọi là Boulevard Bonard) và Nhà hát TP. Nhìn mặt trước nhà hát TP có mấy bức tượng bà đầm cứ tưởng… mình ở bên Tây. Lúc đó đã có nhà hàng Givral rồi, nhưng tôi vẫn còn “kính nhi viễn chi” cái nhà hàng văn minh lịch sự giữa thành phố lớn rộng đó, chưa dám mơ bước chân vào. Ông Hậu vẫy một cái taxi chở chúng tôi về nhà ông. Taxi hồi đó toàn là loại deux cheveaux, nhỏ hẹp sơn hai màu xanh vàng. Khi bước lên xe, đồng hồ con số chỉ là 0, đi quãng nào số tiền nhảy quãng đó.



Những chiếc thang máy không người vẫn chạy đều đều.
Trong ngày đầu tiên, tôi ngu ngơ làm quen với không khí Sài Gòn qua gia đình anh em ông Hậu. Hôm sau ông bạn tôi đi với bồ nên tôi bắt đầu cuộc solo giữa thành phố xa lạ này. Tất cả Sinh Viên SQ đều không được đi xe buýt hay xích lô, phải đi taxi. Nhưng lệnh là lệnh, chúng tôi học các đàn anh khóa trước, cởi áo bốn túi, bỏ cravate, cất cái nón đi là lại tha hồ vung vẩy.



Các tầng lầu càng vắng khách.

Trở thành người Sài Gòn từ bao giờ
Nơi tôi đến đầu tiên là Chợ Lớn. Một cuốc taxi từ giữa trung tâm TP đến cuối Chợ Lớn mất 12 đồng. Tôi tìm đến khách sạn rẻ tiền của mấy thằng bạn Bắc Kỳ ở đường Tản Đà, một con phố nhỏ, ba bốn thằng thuê chung một phòng cũng chẳng có “ông mã tà” nào hỏi đến. Chợ Lớn hồi đó tấp nập hơn ở Sài Gòn, con phố Đồng Khánh chi chít những khách sạn, hàng ăn, cửa tiệm tạp hóa lu bù tưởng như mua gì cũng có. Chúng tôi cũng biết cách chui vào Kim Chung Đại Thế Giới xem thiên hạ đánh bạc. Hôm đó có anh Nguyễn Trọng Bảo cùng Đại Đội tôi nhưng lớn hơn chúng tôi vài tuổi và là một cặp với Nguyễn Năng Tế (lúc đó mới là người yêu của nữ diễn viên điện ảnh Kiều Chinh). Anh thử đánh “tài xỉu”, may mắn làm sao, một lúc sau đó anh được khoảng vài trăm ngàn. Thế là chúng tôi xúi anh “ăn non”, không chơi nữa, rủ nhau đi ăn.


Bắt đầu từ hôm đó chúng tôi đi “khám phá” Sài Gòn và rồi theo cùng năm tháng trở thành người Sài Gòn lúc nào không biết. Càng có nhiều thăng trầm chúng tôi càng gắn bó với Sài Gòn hơn.



Các cửa hàng đá quý vàng bạc càng vắng vẻ.

Lần thứ hai trở lại Sài Gòn
Tôi lại nhớ ngày trở về Sài Gòn sau hơn 12 năm đi tù cải tạo từ Sơn La đến Vĩnh Phú rồi Hàm Tân. Đó là vào buổi chiều tháng 9 năm 1987. Khi đoàn xe thả tù cải tạo bị giữ lại nhà giam Chí Hòa nghe các ông quan chức trấn an về số phận chúng tôi khi được trở về, khoảng hơn 5 giờ chiều chúng tôi mới được thoát ra khỏi cánh cửa sắt nhà tù Chí Hòa. Ngay từ cổng trại tù đã có đoàn quay phim đợi sẵn để quay cảnh “vui mừng đoàn tụ” của tù nhân, chắc là để chứng tỏ cái sự “khoan hồng bác ái” của nhà nước cho những thằng may mắn không chết trong ngục tù. Lại là lần thứ hai tôi đặt chân lên đất Sài Gòn nhưng với tư cách khác giữa một thành phố đã đổi chủ.

Thấy cái cảnh sẽ bị quay phim, Trần Dạ Từ kéo tôi lên vỉa hè đi lẫn trong đám thân nhân được vận động ra đón tù cùng những người dân tò mò nhình “cảnh lạ”. Tránh được cái máy quay phim, chúng tôi đi gần như chạy ra khỏi con phố nhỏ này. Ra đến đường Lê Văn Duyệt, chúng tôi đi chậm lại, nhìn đường phố mà cứ thấy đường phố đang nhìn chúng tôi với một vẻ xa lạ và xót thương? Trần Dạ Từ còn lại ít tiền, anh rủ tôi ghé vào đường Hiền Vương ăn phở. Chẳng biết là bao nhiêu năm mới lại được ăn tô phở Hiền Vương đây. Tôi chọn quán phở ngay sát cạnh tiệm cắt tóc Đàm mà mấy chục năm tôi cùng nhiều bạn bè vẫn thường đến cắt tóc. Có lẽ Trần Dạ Từ hiểu rằng anh về đoàn tụ cùng gia đình chứ còn tôi, vợ con đi hết, nhà cửa chẳng còn, sẽ rất cô đơn, nên anh níu tôi lại. Ngồi ăn tô phở tưởng ngon mà thấy đắng vì thật ra cho đến lúc đó tôi chưa biết sống ra sao giữa thành phố này.

Ở tiệm phở bước ra, chúng tôi đi bên nhau dưới ánh đèn chập choạng của con đường Duy Tân mà Phạm Duy gọi là con đường Đại Học “uống ly chanh đường, uống môi em ngọt.” Đến ngã tư Phan Đình Phùng, tôi chia tay người bạn tù Trần Dạ Từ, đi lang thang trong cô đơn, trong bóng tối của chính đời mình. Bây giờ tôi mới hiểu hết nghĩa của sự cô đơn là thế nào. Tôi bắt đầu cuộc sống lưu lạc trên chính quê hương mình.

Tôi tìm về nhà ông anh rể đã từng nuôi nấng tôi suốt những năm tháng trong tù. Bắt đầu từ đó tôi trở thành người Sài Gòn khác trước. Và rồi với những cùng khổ, những khó khăn, tôi đã tự mình đứng lên. Bởi tôi thấm thía rằng thằng bạn đồng minh xỏ lá đã phản phé mình, lúc này không ai cứu mình cả, anh không vượt qua nó, nó sẽ đè chết anh. Vì thế cho đến bây giờ sống giữa Sài Gòn, tôi phải là người Sài Gòn và mãi mãi sẽ là người Sài Gòn. Làm được cái gì hay chết bẹp dí là do mình thôi.



Tác giả thẫn thờ đứng nhìn công trường Lam Sơn đang bị phá bỏ
Đi tìm hoài niệm

Tôi không lan man về chuyện cũ tích xưa nữa, bởi nói tới những ngày tháng đó chẳng biết bao giờ mới đủ. Cho đến hôm nay, 25 tháng Tám năm 2014, hơn 60 năm ở Sài Gòn, mọi người đang xôn xao về những đổi thay lớn của Sài Gòn, tôi không thể ngồi yên. Tôi muốn chính mắt mình được nhìn thấy những thay đổi ấy. Mặc dù qua 2 lần nằm bệnh viện và với cái tuổi trên tám mươi, tôi đã mất sức nhiều, hầu như suốt ngày ngồi nhà đã từ ba tháng nay. Tôi điện thoại cho Thanh Sài Gòn rủ anh đi thăm “cảnh cũ người xưa”. Chúng tôi vào phở Hòa, môt tiệm phở nổi tiếng từ trước năm 1975 cho đến nay. Con đường Pasteur đan kín xe cộ, tiệm phở Hòa có vẻ tấp nập hơn xưa. Bạn khó có thể tìm lại một chút gì đó của “muôn năm cũ”. Tô phở bị “Mỹ hóa” vì cái tô to chình ình và miếng thịt cũng to tướng, có lẽ ông bà chủ đã học theo phong cách những tiệm phở VN ở Mỹ. Nó “to khỏe” chứ không còn cái vẻ “thanh cảnh” như xưa nữa.

Sau đó, nơi tôi tìm đến đầu tiên chính là Thương Xá Tax. Vừa đến đầu hai con đường gặp nhau Pasteur – Lê Lợi đã nhìn thấy một hàng rào bằng tôn chạy dài. Đường Lê Lợi chỉ còn đủ một lối đi nhỏ dẫn đến Thương Xá Tax và công viên Lam Sơn. Chiếc xe gắn máy len lỏi cho đến tận cuối đường Lê Lợi sát mép đường Tự Do. Chúng tôi đứng trước cửa TX Tax đang bày ra cảnh vô cùng vắng vẻ, chỉ có tôi và anh bảo vệ nhìn nhau. Anh thừa biết tôi đến đây để làm gì. Anh bảo vệ cũng không còn làm cái nhiệm vụ cao quý là mở cửa đón khách, anh để mặc tôi tự do đẩy cánh cửa kính nặng chịch đi vào trong khu thương mại. Đèn đuốc vẫn thắp sáng choang, chiếc thang máy cuốn vẫn lặng lẽ chạy không một bóng người. Nó mang một vẻ gì như người ta vẫn lặng lẽ theo sau một đám tang.

Trong quầy hàng đầu tiên, điều khiến tôi chú ý là hàng chữ nổi bật hàng đại hạ giá (Big Sale) tới 70% đỏ loét chạy dài theo quầy hàng và hàng chữ “TẠM BIỆT THƯƠNG XÁ TAX”.

Tôi cố gợi chuyện với cô chủ hàng xinh xắn: Cô phải đề là “TỪ BIỆT” THƯƠNG XÁ TAX mới đúng chứ, sao lại là “TẠM BIỆT”? Cô hàng trẻ đẹp thở dài ngao ngán: “Ấy người ta còn hứa khi nào căn nhà 40 tầng làm xong sẽ cho chúng tôi được ưu tiên thuê cửa hàng đấy.” Nhưng ngay sau đó cô lại lắc đầu: “Hứa là hứa chứ khi đó mình không cổ cánh, đút lót thì đừng hòng bén mảng tới, ông có tin không?”

Bị hỏi ngược, tôi đâm lúng túng ấp úng nói lảng: Phải đợi tới lúc đó mới biết được. Cô bán hàng quay đi, dường như cô chẳng tin gì cả.

Các quầy hàng khác vẫn mở cửa, mỗi gian hàng chỉ còn lại vài ba người, chắc toàn là những ông bà chủ. Tôi nghĩ họ đang làm công việc khác chứ không để bán hàng. Có ai mua đâu mà bán. Tôi đến hỏi thăm vài ông bà chủ cửa hàng, không tìm thấy bất cứ nụ cười nào trên những khuôn mặt buồn hiu ấy.

Có lẽ vài tuần nay, người đi tìm đồ hạ giá đã “khuân” đi khá nhiều rồi, lúc này những thứ hàng còn lại không còn giá trị nữa. Tuy nhiên cửa hàng nào cũng còn bề bộn hàng ế. Nhìn lên tầng lầu cũng vậy, nó còn vắng vẻ thê thảm hơn.

Tôi bước lên mấy bậc của bục gỗ, ghé vào một tiệm bán máy hình còn nguyên si bởi ông chủ quyết không giảm giá. Tôi hỏi lý do, ông có vẻ liều:

- Thà ế chứ không giảm.

Tôi lại tò mò hỏi tiếp:

- Vậy là ông có một cửa hàng ở nơi khác nữa?

Ông lắc đầu:

- Không.

Tôi hỏi:

-Vậy ông sẽ làm gì?

Câu trả lời của ông cụt lủn:

- Về quê làm ruộng.

Tôi yên lặng trước sự bất bình đó. Đứng nhìn hàng loạt máy hình, máy quay phim đủ loại còn nằm rất thứ tự trong tủ kính sáng bóng. Tôi lại hỏi:

- Chắc họ phải đền bù cho ông những thiệt hại này chứ?

- Chưa có xu nào cả. Thời hạn bắt di dời nhanh quá, trở tay không kịp.

Tôi nghĩ chắc ông này cũng chỉ là người đi thuê lại cửa hàng của một ông nhà giàu nào đó mà thôi, ông có vẻ bất cần đời. Tôi từ giã, ông chỉ gật đầu nhẹ.

Nhìn sang hàng loạt cửa hàng vàng bạc đá quý gần như vẫn còn nằm nguyên vẹn và không một bóng khách vãng lai. Các bà, các cô tha hồ nhìn nhau ăn cơm hộp. Tôi có cảm tưởng một thành phố chết vì chiến tranh gần kề hay vì một nạn dịch nào đó.

Vậy mà tôi vẫn còn đi vơ vẩn trong cái không gian như nghĩa trang sống đó. Tôi đi tìm hình bóng của một thời dĩ vãng, nào vợ con, nào bè bạn, nào những người xa lạ trong cái nhịp thở rộn ràng thân thiện của tất cả Sài Gòn xưa ở chốn này. Chẳng bao giờ trở lại. Tôi muốn gọi tên tất cả trong hoài niệm tận cùng sâu lắng.


Trước cửa Công Ty Cấp Nước TP, nơi tác giả đặt chân lên TP Sài Gòn 60 năm trước.
Ngậm ngùi nhìn công viên Lam Sơn trống rỗng
Rồi tôi cũng phải bước ra. Trở về với thực tại, nhưng vẫn gặp cái vắng lặng của vỉa hè chạy dài theo đại lộ Nguyễn Huệ. Dường như chỉ còn có Thanh Sài Gòn ngồi ngất ngư với “người xưa trong ảnh” của một ô quảng cáo vuông vắn phía ngoài thương xá.

Chúng tôi đi qua khu công viên Lam Sơn, lúc này đã được phá sạch, chỉ còn vài cây cổ thụ cao lêu nghêu bên cạnh “công trường” đang làm, dường như hàng cây đứng chờ giờ hành quyết như các “đồng nghiệp” của nó đã bị đốn hạ vài hôm trước. Các bác thợ quần áo xanh, dây đeo chằng chịt đã và đang dọn dẹp cho công trường trống rỗng. Tôi đứng trước Nhà Hát Thành Phố nhìn cảnh “vườn không nhà trống” đó mà ngậm ngùi nhớ tới pho tượng Thủy Quân Lục Chiến sừng sững đứng bảo vệ thành phố ngày nào và nhớ tới những đồng đội TQLC đã ngã xuống hoặc giờ này đã ở khắp phương trời xa.

Chắc hẳn bạn còn nhớ ngay cạnh đó là góc bùng binh Nguyễn Huệ - Lê Lợi còn là nơi tổ chức đường hoa vào dịp Tết. Gia đình nào chẳng một lần kéo nhau đi giữa đường hoa với tâm trạng rộn ràng của một ngày hội hoa xuân. Từ năm nay sẽ mất hẳn, chẳng bao giờ thấy bóng dáng mùa xuân ở đây nữa.

Cuối cùng tôi trở lại nơi mà lần đầu tiên tôi đặt chân lên TP Sài Gòn. Tôi đã nhảy xuống xe GMC ở đây, đúng nơi này, phía sau Nhà Hát Thành Phố, bây giờ là trụ sở của Tổng Công Ty Cấp Nước của TP. Mặt đường nhựa chẳng có gì thay đổi, nó cũng nhẵn mòn như những con đường nhựa khác, nhưng với tôi nó là một dấu son đáng nhớ nhất trong đời. Vậy mà đã đúng 60 năm rồi sao?

Mai này Sài Gòn sẽ còn mất đi nhiều thứ nữa như vòng xoay trước cửa Chợ Bến Thành, một biểu tượng mà bất cứ ai đã đến Sài Gòn dù chỉ một lần cũng không thể nào quên. Đó là những thứ sẽ mất đi để làm tuyến metro số 1 Bến Thành - Suối Tiên. Ngoài tuyến metro số 1, còn xây dựng thêm 6 tuyến metro khác. Chúng ta sẽ mất đi nhiều di tích xưa cũ. Sài Gòn sẽ đổi khác rất nhiều, để lại trong người Sài Gòn dù ở đâu cũng thấy cảm thấy một nỗi bùi ngùi, nhớ tiếc. 60 năm Sài Gòn, hồn ở đâu bây giờ?

Văn Quang (29 tháng Tám, 2014)

Việt Nam luôn luôn là nước sớm muộn gì cũng phải cầu hòa với Trung Quốc!

"Hoàn Cầu Thời Báo" lại kênh kiệu, khuyên Việt Nam bỏ "cơ hội chủ nghĩa: Hanoi should give up on opportunism (Global Times 4-9-14) -- Đây là bài thứ ba trong ba ngày liên tiếp mà Tàu lên giọng dạy Việt Nam. (Cử riêng một tay vẽ biếm họa để giễu cợt Việt Nam!) Đọc câu này mà tức ói máu: Vietnam has thousands of years of experience and lessons in dealing with China. When the two fall foul of each other, it is always Vietnam that eventually holds out an olive branch and makes peace with China. (Đại ý: Trong mấy ngàn năm lịch sử của hai nước, Việt Nam luôn luôn là nước sớm muộn gì cũng phải cầu hòa với Trung Quốc!)

Hanoi should give up on opportunism
By Ke Xiaozhai Source:Global Times Published: 2014-9-4 19:08:01
 

Illustration: Liu Rui/GT


Vietnam has thousands of years of experience and lessons in dealing with China. When the two fall foul of each other, it is always Vietnam that eventually holds out an olive branch and makes peace with China.

Given the current circumstances, a stable Vietnam-China relationship is in line with the interests of Vietnam, because it doesn't want to detach itself from China's prosperous period of strategic opportunity.

We have to admit that Vietnam often takes the initiative in bilateral ties, and whether the relationship can go back on track depends on how much effort Vietnam will put.

Vietnam should abandon all delusions and cooperate with China to advance joint exploitation.

Hanoi denies China's nine-dash line, and its claims over the exclusive economic zones (EEZs) and continental shelves also forbid cooperation with China in these regions.

It intends to drive China out of the large expanse of seas south of the Xisha Islands.

If Vietnam doesn't change its attitude, both sides will engage in more clashes when China reinforces its efforts to defend its legitimate rights in this region.

It is impossible that the Vietnamese government will withdraw its original claims to the EEZs and continental shelves, but Vietnam should admit that these areas are in disputes. This will herald a win-win situation as both sides can seek common grounds to make joint development.

This requires Vietnam to reach an agreement domestically. As for China, this is also the only way that Beijing can avoid a conflict with Vietnam and in the meanwhile defend its own national interests.

Vietnam should also give up violence and go back to seeking a peaceful and reasonable resolution.

Hanoi has got used to playing tricks by resorting to violence and stoking up the sympathies of the global community. This has reduced the possibility of finding resolutions.

Such tricks worked in the past, because China had to compromise for the big picture. But when China is determined to defending its legitimate rights, Vietnam will find the tricks useless.

Vietnam must draw bitter lessons from the riots in May, which aggravated its domestic security environment. Vietnam is adept at changing strategies according to different scenarios. It should realize that a low-key diplomacy will serve it much better when dealing with disagreements with China.

Hanoi should be aware that its propaganda efforts in the past few years have backfired. The Vietnamese authorities have put unscrupulous efforts into propaganda demonizing and degrading China's image over the South China Sea issue. And this has aroused the mania of its whole population over the disputes.

China's image being distorted is the root cause why Vietnam's anti-China campaign has flared up. If such anti-China sentiment cannot be reversed, both Hanoi and Beijing will be confined in exploring possible paths to address the problems. In the end, Hanoi will be stranded by itself.

The Communist Party of Vietnam and the Vietnamese government must assume their responsibilities and show the Vietnamese people the true picture of Vietnam-China relations.

If they fail to properly guide the public opinion, it is impossible that they can manage well the bilateral relationship with China.

Hanoi must give up on opportunism and go back on track of the bilateral talks. History has proven that the benefits Vietnam can draw from a reciprocal and friendly relationship with China are far more important than the petty interests it can acquire by dragging an external force to interfere into the Vietnam-China relationship.

Both sides have successfully settled some of their historical issues, such as the demarcation of land boundary and the Beibu Gulf issue, which shows that a framework of bilateral talks will not force Vietnam to suffer losses.

So far, it seems that Vietnam still lacks the ability to draw wisdom from history. Hanoi keeps harboring a fantasy that it will prevail by pushing the South China Sea issue into international discourse.

Such efforts are defined by Beijing as unfriendly moves. Hanoi's aggressive actions on the sea, in a general situation where China is being contained by many external forces, will only meet China's countermeasures.

By playing tricks, Vietnam might get some sympathy or support from the international community. But its confrontation with China will only grow deeper. The sooner Vietnam realizes the consequences, the sooner both sides can turn over a new leaf.

The author is a research fellow of the Southeast Asian Studies Center of Guangxi Zhuang Autonomous Region. opinion@globaltimes.com.cn

Pháp vi hiến Quyền bất chính

Hiến pháp vi hiến

Hoàng xuân Phú/ blog Hoàng Xuân Phú 
Ts Hoàng Xuân Phú
pháp vi hiến quyền bất chính
Đây là bài thứ hai trong số 4 bài viết về Hiến pháp 2013 của tiến sĩ Hoàng Xuân Phú. Rất dài. Bà con có thể bỏ qua ngay để đi ngủ, hoặc thức đến hai giờ sáng để đọc nó một cách chậm rãi và kĩ lưỡng rồi thao thức cho đến sáng mai.... Bảo đảm bà con sẽ không tiếc một đêm thức trắng.

 Một hành vi hay văn bản được coi là vi phạm hiến pháp, gọi tắt là vi hiến, nếu nó vi phạm một quy định nào đó trong hiến pháp.

Văn bản pháp luật vi hiến thì không hiếm. Nhưng hiến pháp mà cũng vi hiến thì hiếm hoi đến mức có thể coi là "đặc sản" của chế độ. Tiếc rằng, Hiến pháp 2013 – do Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013 – lại thuộc loại ấy. Chúng ta hãy cùng nhau phân tích mấy điều khoản vi hiến để làm sáng tỏ nhận định này.

Vì mọi điều khoản trong một bản hiến pháp đều được xem là "chuẩn mực", nên khi hai nội dung mâu thuẫn với nhau thì có thể dùng điều này phủ định điều kia và ngược lại, để cuối cùng thì cả hai đều trở thành vi hiến. Tuy nhiên, ta sẽ không phủ định triệt để cả hai, mà "tha" cho điều khoản có vị thế ưu tiên hơn trong hiến pháp, và dùng nó để đánh giá những điều khoản khác. Vậy căn cứ vào đâu để xác định vị thế ưu tiên trong hiến pháp? Theo tư duy của các nhà lập hiến, chắc hẳn Chương I có vị thế ưu tiên nhất, và Chương II có vị thế ưu tiên hơn (tức là quan trọng hơn) so với các chương sau. Trong nội bộ một chương, điều được đặt lên trước có lẽ cũng được coi là quan trọng hơn điều bị đặt ở phía sau.

Để chứng minh một điều khoản nào đó của Hiến pháp 2013 là vi hiến, ngoài những quy tắc suy luận lô-gích tối thiểu, ta sẽ chỉ dựa vào bản thân Hiến pháp để lập luận. Kể cả khi trích dẫn Hiến chương Liên hợp quốc hay Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền 1948, thì không có nghĩa là viện dẫn văn bản ngoại lai, mà chỉ nhằm khẳng định đối tượng đang được khảo sát vi phạm Điều 12 Hiến pháp 2013, cam kết rằng:
"Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam… tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên."

Bài này được chia thành 5 phần như sau:

Phần 1 (Bớt xén quyền con người) phân tích tính vi hiến của Điều 14 Hiến pháp 2013, quy định rằng "các quyền con người… được công nhận… theo Hiến pháp và pháp luật".

Phần 2 (Ép thầy tu cầm súng) bàn về tính vi hiến của Điều 45 Hiến pháp 2013, quy định rằng "công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự".

Phần 3 (Bắt người dưng thờ phụng) chỉ ra sự vi hiến của Điều 65 Hiến pháp 2013, đòi hỏi "Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành… với Đảng… bảo vệ… Đảng… và chế độ xã hội chủ nghĩa… thực hiện nghĩa vụ quốc tế".

Phần 4 (Tước đoạt quyền sở hữu) chứng minh sự vi hiến của Điều 53 Hiến pháp 2013, quy định rằng "Đất đai… là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý".

Phần 5 (Chiếm quyền lực Nhân dân) vạch ra tính vi hiến của Điều 4 Hiến pháp 2013, mặc định rằng "Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội", và tính vi hiến của Điều 9 Hiến pháp 2013, ấn định rằng "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện… quyền… của Nhân dân".

Để tránh hiểu lầm là sự vi hiến của Hiến pháp 2013 chỉ dừng lại ở 6 điều khoản kể trên, đoạn kết của bài này đề cập thêm một ví dụ vi hiến, đó là Điều 10 Hiến pháp 2013, quy định rằng "Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động… đại diện cho người lao động… bảo vệ quyền, lợi ích… của người lao động".

Ba trong số bẩy nội dung vi hiến kể trên đã được góp ý và bị phê phán rất nhiều trong quá trình thảo luận Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Song nhà cầm quyền vẫn bất chấp, cố bám giữ bằng được. Khi tranh luận về bản Dự thảo, cả hai phía đều dựa chủ yếu vào quan điểm nhận thức để bảo vệ hay bác bỏ. Lập trường quá khác nhau, nên khó tránh khỏi quá đà, lắm lúc còn nặng lời thóa mạ. Và như một bản năng, mỗi lần đuối lý, thì bộ máy lý luận và tuyên truyền của nhà cầm quyền lại thường quy chụp những ý kiến trái chiều là thù địch hay phản động. Bây giờ, trong bài viết này, mọi lập luận chỉ đơn thuần dựa trên Hiến pháp 2013. Cho nên, nếu vẫn cố quy chụp các kết luận được rút ra ở đây là phản động, thì chẳng khác gì coi Hiến pháp của chế độ đương thời là phản động.

1.  Bớt xén quyền con người

Khoản 1 Điều 14 của Hiến pháp 2013 viết rằng:
"Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật."
Đây là một điều khoản vi hiến rất tinh vi, bởi vì chất vi hiến ẩn khuất trong một mệnh đề được viết gián đoạn: "Các quyền con người… được công nhận… theo Hiến pháp và pháp luật". Điều đó cũng có nghĩa là: Các quyền con người chỉ được công nhận theo Hiến pháp và pháp luật. Nếu quyền con người nào không hoặc chưa được Hiến pháp và pháp luật công nhận đích danh, thì không hoặc chưa được thừa nhận.

Để chứng minh nhận định trên, ta cần chỉ ra rằng cụm từ "theo Hiến pháp và pháp luật" được gắn với cả bốn động từ trong cái mớ lòng thòng "được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm". Thật vậy, giả sử cụm từ "theo Hiến pháp và pháp luật" chỉ gắn với động từ cuối cùng là "đảm bảo", thì phần còn lại (trước đó) sẽ chứa đựng nội dung (hoàn chỉnh) là:
"Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người được công nhận, tôn trọng, bảo vệ."
Câu này ở thể bị động, nhằm hiến định nghĩa vụ của Nhà nước. Khi chuyển sang thể chủ động, ta thu được mệnh đề:
"Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ các quyền con người."
Song nội dung này đã có trong Điều 3 Hiến pháp 2013, viết rằng:
"Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân."
Vậy thì việc gì phải nhắc lại nó một lần nữa ở Điều 14?

Lập luận vừa rồi có lẽ chưa đủ để chứng minh nhận định trên, bởi vì viết trùng lặp là một căn bệnh của Hiến pháp 2013. Cho nên, cần viện dẫn thêm cả Hiến pháp 1992, trong đó quy định rằng:
"Điều 50  Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật."
"Điều 51Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định."
Rõ ràng, Hiến pháp 1992 nhấn mạnh đến hai lần, rằng "các quyền con người… được… thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật""quyền… của công dân do Hiến pháp và luật quy định". Hệ quả pháp lý là: Những quyền nào không "được quy định trong Hiến pháp và luật" thì không được nhà cầm quyền thừa nhận. Hơn thế nữa, vì "các quyền con người" chỉ "được… thể hiện ở các quyền công dân", nên Hiến pháp 1992 không thừa nhận quyền con người của những người Việt bị mất quyền công dân (chẳng hạn trong thời gian chấp hành án tù giam) và của những người nước ngoài đang có mặt ở Việt Nam (do họ không phải là công dân Việt Nam).

Hiến pháp 2013 "kế thừa" Hiến pháp 1992, như được khẳng định trong Lời nói đầu, nên ý "quyền con người được công nhận theo Hiến pháp và pháp luật" tại Điều 14 Hiến pháp 2013 là kế thừa của ý "quyền công dân được quy định trong Hiến pháp và luật" tại Điều 50Điều 51 của Hiến pháp 1992 mà thôi.

Suốt mấy chục năm qua, nhà cầm quyền luôn dị ứng với khái niệm "quyền con người", coi "nhân quyền" như một thứ xấu xa, cấm kỵ. Mặc dù đó là những quyền hiển nhiên được Tạo hóa ban cho mọi người sinh ra trên Trái đất, như đã được trích dẫn trong "Tuyên ngôn độc lập" khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Không thể phủ định được mãi, giờ đây họ buộc phải "chấp nhận khái niệm quyền con người" trong Hiến pháp 2013. Để tiệm cận được cái chân lý quá hiển nhiên ấy, giới cầm quyền phải vật lộn rất vất vả với chính bản thân mình, đến mức cho rằng cú nhích quá muộn màng đó là "một bước tiến rất lớn", như đã thể hiện trong lời phát biểu của ông Phan Trung Lý, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội khóa XIII và Trưởng Ban Biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992:

Cần phải lưu ý rằng: Đại từ nhân xưng "Chúng ta" chỉ đúng với ngữ cảnh tâm sự trong nội bộ giới cầm quyền. Còn khi họp báo, nghĩa là nói với "người ngoài", thì ông Lý nên xưng "Chúng tôi" cho chính xác. Bởi vì đối với quảng đại Nhân dân thì quyền con người là một khái niệm hiển nhiên, đến mức… phải ngạc nhiên: Tại sao họ lại "chậm hiểu" đến như vậy? "Chậm" thì sao không tránh sang một bên, để rộng đường cho Nhân dân đi tới tương lai?

Qua khẳng định của ông Trưởng Ban Biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, ta thấy rõ rằng nhà cầm quyền vẫn chưa chịu thừa nhận quyền con người một cách đầy đủ, mà mới chỉ dừng lại ở mức "thể hiện quyền con người trong hiến pháp bằng những quy định cụ thể". Sao lại ì ạch, khó nhọc đến như vậy? Làm hiến pháp, làm luật, thì phải hiểu được kiến thức sơ đẳng là: Dù muốn thì cũng không thể quy định hay liệt kê hết thảy mọi thứ trong hiến pháp, pháp luật, và nếu điều gì không được liệt kê thì không có nghĩa là nó bị phủ nhận. Để tránh hiểu lầm, 222 năm trước các nhà lập hiến Mỹ đã bổ sung thêm điều sau đây vào Hiến pháp Mỹ:
"Việc liệt kê một số quyền trong Hiến pháp không có nghĩa là phủ nhận hay hạ thấp những quyền khác của người dân." (Tu chính IX)

Quyền công dân có thể mang tính đặc thù của từng quốc gia, nhưng quyền con người thì mang tính phổ quát trên toàn thế giới, chứ không phải là thứ do nhà cầm quyền của từng nước ban phát. Bình thường thì Nhà nước phải thừa nhận tất cả các quyền con người, cho dù các quyền đó có được đề cập cụ thể trong Hiến pháp và pháp luật hay không. Quyền con người được đề cập trong Điều 3 Hiến pháp 2013 phải mang ý nghĩa như vậy. Do đó, việc Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp 2013 hạn chế quyền con người, chỉ "công nhận… theo Hiến pháp và pháp luật", là vi phạm Điều 3 Hiến pháp 2013.

"Tất cả thành viên cam kết bằng các hành động chung hoặc riêng trong sự nghiệp hợp tác với Liên hợp quốc để đạt được những mục đích ở Điều 55."
Trong số các mục đích được nêu ở Điều 55 có:
"Tôn trọng và tuân thủ triệt để các quyền con người và các quyền tự do cơ bản của tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hay tôn giáo."
"Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền."
Rõ ràng, việc Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp 2013 hạn chế quyền con người ở Việt Nam là vi phạm nguyên tắc "các quyền con người… không phân biệt chủng tộc""mọi người sinh ra đều… bình đẳng về… các quyền".

Trong số các quyền con người chưa được nhà cầm quyền Việt Nam "công nhận… theo Hiến pháp và pháp luật" có quyền "tự do tư tưởng". Vậy là vi phạm Điều 18 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền:
"Mọi người có quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo."
Đó là một quyền rất cơ bản, là tiền đề của nhiều quyền tự do khác. Bởi lẽ, nếu không có quyền "tự do tư tưởng", tức là "tự do nghĩ khác", thì cái gọi là "tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình" cũng chỉ là một thứ "tự do nô lệ", "tự do phụ họa", dành riêng cho những ai chỉ biết ca ngợi nhà cầm quyền và "ngân nga" tư tưởng được coi là chính thống mà thôi. Đúng như Rosa Luxemburg (1871-1919) – nhà lý luận Mác-xít tiền bối bậc thầy của những người cộng sản Việt Nam – đã viết trong tác phẩm "Về cách mạng Nga" (Zur russischen Revolution – Xuất bản lần đầu vào năm 1922, bàn về cuộc cách mạng của những người cộng sản Nga, tạo dựng ra chế độ Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết):
"Tự do mà lại chỉ dành cho những người ủng hộ chính phủ, chỉ dành cho các đảng viên của một đảng – dù họ đông bao nhiêu đi nữa – thì đó không phải là tự do. Tự do luôn chỉ là tự do của những người nghĩ khác."

Đáng lưu ý là: Trong Hiến pháp 2013, một số quyền con người bị hạn chế bằng cách chỉ được thể hiện dưới dạng quyền công dân, ví dụ như:
"Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước." (Điều 23)
"Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình." (Điều 25)
Hệ quả pháp lý là: Theo Khoản 1 Điều 14 thì những quyền này chỉ còn là quyền công dân, không được công nhậnquyền con người, nên những người không mang quốc tịch Việt Nam không được hưởng trên đất Việt Nam. Chẳng hạn, người gốc Việt mang quốc tịch nước ngoài có thể không được về quê hương Việt Nam, hay khi đang ở trên đất Việt Nam thì người nước ngoài không có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Như vậy là vi phạm ba điều khoản sau đây của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền:
"Mọi người đều có quyền rời khỏi lãnh thổ bất kỳ nước nào, kể cả nước của mình, và quyền trở về xứ sở." (Điều 13)
"Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm; quyền này bao gồm cả tự do quan điểm mà không bị can thiệp và được tự do tìm kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức và tư tưởng qua mọi phương tiện truyền thông bất kể biên giới." (Điều 19)
"Mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội một cách ôn hòa." (Điều 20)

Với các chứng cứ kể trên, ta có thể khẳng định rằng Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp 2013 vi phạm Điều 12 Hiến pháp 2013, trong đó cam kết "tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên".

Tóm lại, Điều 14 Hiến pháp 2013 là vi hiến, vì nó mẫu thuẫn với Điều 3Điều 12, tức là vi phạm hai điều có vị thế ưu tiên hơn nó trong cùng Hiến pháp.

Sự vi hiến này không phải là vô tình, mà là sản phẩm truyền thống của "hội chứng ban phép", tức là lối tư duy thống trị, cho rằng người dân chỉ được làm và chỉ được hưởng những thứ mà nhà cầm quyền cho phép. Nó xuất phát từ ngộ nhận, cho rằng thế lực cầm quyền "cao hơn hẳn" tất thảy Nhân dân và có "quyền sinh quyền sát" đối với cộng đồng Nhân dân. Đó là một căn bệnh trầm kha, đã trói buộc Nhân dân ta và cản trở sự phát triển của Dân tộc ta suốt mấy chục năm qua, biến Dân ta thành một thứ "nô lệ tư duy". Cái gọi là "đổi mới" (được tiến hành từ những năm 80 của thế kỷ 20) chẳng qua là nhà cầm quyền chịu "cởi trói", nói đúng hơn là "nới trói", trả lại cho Dân một phần quyền sinh sống và làm ăn tự do vốn có tự bao đời. Cho nên, nếu muốn thực sự giải phóng Nhân dân, giải phóng Dân tộc khỏi xiềng xích, thì phải cương quyết triệt xóa "hội chứng ban phép" này.


2.  Ép thầy tu cầm súng

"Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự..."
Nghĩa vụ này được cụ thể hóa trong Luật nghĩa vụ quân sự như sau:
"Điều 3  Công dân nam giới, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, nơi cư trú, có nghĩa vụ phục vụ tại ngũ trong Quân đội nhân dân Việt Nam."

Khi phục vụ tại ngũ trong quân đội thì phải luyện tập giết kẻ thù, và trong hoàn cảnh cần thiết thì cũng phải giết kẻ thù. Mà kẻ thù, dù xấu xa, phi nghĩa đến đâu, thì cũng là con người. Vì vậy, bắt cả những người có tín ngưỡng tương tự như "Ngũ giới" của Phật tử phải "thực hiện nghĩa vụ quân sự" tức là bắt họ phải tham gia "sát sinh", là vi phạm "quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo" của họ. Rõ ràng, Điều 45 vi phạm Điều 24 Hiến pháp 2013, hiến định rằng:
"1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật."

Lý lẽ trên đơn giản và hiển nhiên đến mức không thể né tránh câu hỏi: Chẳng nhẽ Quốc hội không có ai thực sự hiểu và bảo vệ tín ngưỡng, tôn giáo hay sao? Các đại biểu "vô thần" không hiểu tín ngưỡng đã đành, chẳng nhẽ các đại biểu mặc áo cà sa cũng không hiểu nốt?

Hay họ hiểu cả, nhưng chỉ định đưa "quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo" vào Hiến pháp để cùng với các quyền tự do báo chí, lập hội, biểu tình… hóa trang dân chủ cho chế độ, chứ chẳng hề có ý định tôn trọng các quyền đó? Nghi ngờ này đã được xác nhận quá nhiều lần trên thực tế, và nay lại được củng cố thêm bởi Khoản 3 của Điều 24 Hiến pháp 2013, quy định rằng "không ai được… lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật". Xét về mặt pháp lý, khoản cấm này là hoàn toàn thừa, vì đã có quy định tổng quát tại Điều 46 Hiến pháp 2013"công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật", và hệ quả hiển nhiên là "không ai được vi phạm pháp luật", bất luận vì lý do gì, cho dù lợi dụng hay không lợi dụng một quyền nào đó. Cho nên, có lẽ vai trò của khoản cấm "lợi dụng" chỉ là tạo cớ để khước từ hay hạn chế "quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo", như đã trao đổi trong bài "Teo dần quyền con người trong Hiến pháp".

Nếu thực tâm tôn trọng "quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo", thì các nhà lập hiến CHXHCN Việt Nam nên thay Khoản 3 của Điều 24 Hiến pháp 2013 bằng Khoản 3 của điều sau đây trong Hiến pháp CHLB Đức (Grundgesetz für die Bundesrepublik Deutschland):
(1) Tự do tín ngưỡng, tự do lương tâm và tự do biểu lộ tôn giáo và thế giới quan là bất khả xâm phạm.
(2) Việc thực thi tôn giáo mà không bị quấy rối được bảo đảm.
(3) Không ai có thể bị ép buộc cầm súng phục vụ chiến tranh trái với lương tâm của bản thân. Chi tiết được quy định trong một luật của Liên bang."
Khoản 3 này đã được đưa vào Hiến pháp CHLB Đức từ năm 1949, cách nay đã hơn 60 năm. Qua đó có thể thấy tư duy pháp luật và ý thức coi trọng quyền con người của giới cầm quyền Việt Nam tụt hậu đến mức nào.

Trên phạm vi quốc tế, Nghị quyết 1995/83 (ban hành ngày 08/03/1995) của Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc (The United Nations Commission on Human Rights, CHR) đã khẳng định:

"Quyền từ chối phục vụ trong quân đội của mỗi người vì lý do lương tâm là thể hiện hợp pháp của quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo."

Và còn nhấn mạnh rằng quyền đó dựa trên Điều 18 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của Liên Hợp Quốc (mà Việt Nam là thành viên từ 20/09/1977) và Điều 18 Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (International Covenant on Civil and Political Rights, mà Việt Nam gia nhập vào ngày 24/09/1982). Nội dung này cũng được tái khẳng định trong một số văn kiện khác của CHR, ví dụ như Nghị quyết 1998/77 (ban hành ngày 22/04/1998) và Nghị quyết 2004/35 (ban hành ngày 19/04/2004).

Mới trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc (The United Nations Human Rights Council, HRC) nhiệm kỳ 2014-2016, nhà cầm quyền Việt Nam không thể phớt lờ các nghị quyết kể trên của CHR (nay được thay thế bởi HRC), và bỏ qua những cam kết khi ra ứng cử. Vậy mà 15 ngày sau khi trúng cử, Quốc hội lại thông qua một bản Hiến pháp với Điều 45 bất chấp "quyền từ chối phục vụ trong quân đội vì lý do lương tâm". Như thế là Điều 45 vi phạm cả Điều 12 Hiến pháp 2013, hiến định trách nhiệm "tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩaViệt Nam là thành viên".

Sự vi hiến của Điều 45 Hiến pháp 2013 không chỉ dừng ở đó. Để nhận diện điều bị vi phạm tiếp theo, ta hãy ước lượng xem quy mô quân đội sẽ lớn thế nào, nếu điều hiến định này được thực hiện nghiêm túc.

Theo Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật nghĩa vụ quân sự số 43/2005/QH11, "độ tuổi gọi nhập ngũ trong thời bình từ đủ mười tám tuổi đến hết hai mươi lăm tuổi""thời hạn phục vụ tại ngũ trong thời bình của hạ sĩ quan và binh sĩ là mười tám tháng". Theo kết quả tổng điều tra dân số năm 2009 thì có 10,8 triệu công dân nam ở độ tuổi 15-19 và 10,0 triệu công dân nam ở độ tuổi 20-24. Như vậy, nếu phân đều số công dân nam trong độ tuổi 18-25, thì bình quân mỗi năm có khoảng 2 triệu công dân nam cần nhập ngũ để "thực hiện nghĩa vụ quân sự".

Trong khi đó, theo thông tin của Đại tá Nguyễn Ánh Dương tại buổi thông báo tình hình cho đoàn Tùy viên quân sự các nước tại Việt Nam, được tổ chức vào ngày 30/09/2013, thì tổng quân số hiện nay của Quân đội nhân dân Việt Nam là 450.000. Để duy trì quân số đó với thời gian phục vụ tại ngũ tối thiểu là 18 tháng = 1,5 năm, thì mỗi năm chỉ cần gọi nhập ngũ chưa đến 450.000/1,5 = 300.000 người. Như vậy là có hơn (2.000.000 – 300.000)/2.000.000 = 85% công dân nam không bao giờ phải hay được phục vụ trong quân đội. Đó là tính toán được đơn giản hóa, dựa trên thời gian tại ngũ ở mức thấp nhất (18 tháng). Trên thực tế, bên cạnh lực lượng chuyên nghiệp đông đảo, rất nhiều quân nhân phải phục vụ tại ngũ 24 tháng, theo quy định của Điều 14 Luật nghĩa vụ quân sự hiện hành:
"Thời hạn phục vụ tại ngũ trong thời bình của hạ sĩ quan chỉ huy, hạ sĩ quan và binh sĩ chuyên môn kỹ thuật do quân đội đào tạo, hạ sĩ quan và binh sĩ trên tàu hải quân là hai mươi bốn tháng."
Và trong số phục vụ tại ngũ còn có rất nhiều phụ nữ. Vì vậy tỷ lệ công dân nam không bao giờ phục vụ trong quân đội còn cao hơn hẳn. Thậm chí, Trung tướng Trần Văn Độ (Chánh án Tòa án Quân sự Trung ương, Phó Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao) nói rằng: "Hiện nay, trong những người đủ tiêu chuẩn, chỉ khoảng 5% thực hiện nghĩa vụ quân sự".

Sau khi trừ bớt số được miễn hoặc được hoãn (nhưng rồi trở nên quá tuổi nhập ngũ nên cũng thành được miễn) nghĩa vụ quân sự theo quy định của Điều 29 Luật nghĩa vụ quân sự (sửa đổi năm 2005), và trừ cả những người được tuyển vào lực lượng Công an nhân dân, thì tỷ lệ "phi nghĩa vụ quân sự" vẫn còn rất cao. Như vậy, quy mô quân đội hiện tại tất yếu dẫn đến kết cục là có rất nhiều công dân nam không phải hoặc không được "thực hiện nghĩa vụ quân sự". Do đó, Điều 45 Hiến pháp 2013 gây ra sự bất bình đẳng trước pháp luật trên quy mô rất lớn, tức là vi phạm Điều 16 Hiến pháp 2013, hiến định rằng:
"Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật."

Tóm lại, trong Hiến pháp 2013, Điều 45 vi phạm ba điều ở vị thế ưu tiên hơn, đó là Điều 12, Điều 16 Điều 24. Vì vậy, Điều 45 Hiến pháp 2013 là vi hiến!

Hệ quả không chỉ dừng ở đó. Trong chế độ mà tham nhũng ngự trị, hàng năm có hàng triệu công dân nam có thể phải nhập ngũ theo quy định của pháp luật, nhưng quân đội lại chỉ cần và chỉ có thể tiếp nhận một phần rất nhỏ trong số đó, thì dễ xảy ra tiêu cực trên diện rộng để tránh "thực hiện nghĩa vụ quân sự". Nghĩa là, với việc hiến định "công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự" tại Điều 45, Quốc hội khóa XIII đã hành động ngược lại với nghĩa vụ được quy định tại Điều 8 Hiến pháp 2013:
"Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải… kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng…"

Vậy thì phải khắc phục như thế nào? Chẳng cần phải sáng tạo ra điều gì mới mẻ, mà chỉ cần khiêm tốn học hỏi thiên hạ và vận dụng những kiến thức đã trở thành kinh điển trên thế giới.

Để không vi phạm Điều 24 Hiến pháp 2013 về "quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo" thì phải chấp nhận để những người khước từ cầm súng vì lý do tín ngưỡng được thực hiện "nghĩa vụ thay thế". Một ví dụ đáng để tham khảo là Điều 12a Hiến pháp CHLB Đức, với hai khoản đầu tiên được viết như sau:
"(1) Đàn ông đủ 18 tuổi có thể phải phục vụ trong lực lượng quân đội, lực lượng biên phòng, hoặc trong một tổ chức bảo vệ dân sự."
"(2) Người nào từ chối phục vụ chiến tranh bằng vũ khí vì lý do lương tâm thì có thể phải phục vụ thay thế. Thời gian phục vụ thay thế không được lâu hơn thời gian nghĩa vụ quân sự. Chi tiết được quy định bằng một luật, trong đó không được hạn chế quyền tự do xác định lương lâm và phải đưa ra một khả năng phục vụ thay thế không liên quan tới lực lượng quân đội và lực lượng biên phòng."
Cụ thể hóa điều hiến định trên, Luật từ chối phục vụ chiến tranh (Kriegsdienstverweigerungsgesetz) của CHLB Đức quy định rằng những người không muốn cầm súng phải trải qua thủ tục xem xét, và nếu được công nhận là "người  từ chối phục vụ chiến tranh" (Kriegsdienstverweigerer, conscientious objector), thì sẽ được thay thế nghĩa vụ quân sự bằng "phục vụ dân sự" (Zivildienst, civilian service). Theo Điều 1 của Luật phục vụ dân sự của những người từ chối phục vụ chiến tranh (Gesetz über den Zivildienst der Kriegsdienstverweigerer) thì nhiệm vụ của họ là "phục vụ phúc lợi chung, trước hết là trong lĩnh vực phúc lợi xã hội", ví dụ như chăm sóc người già, người tàn tật, hoạt động cứu hộ, chuyên chở bệnh nhân…

"Phục vụ dân sự" thay thế cho nghĩa vụ quân sự không phải là chuyện mới mẻ. Nước đầu tiên triển khai "phục vụ dân sự" là Đan Mạch (vào năm 1917), tiếp sau đó là Hà Lan (1920), Thụy Điển (1920), Na Uy (1921) và Phần Lan (1931). Ngược lại với CHLB Đức, một số nước quy định thời gian "phục vụ dân sự" dài hơn thời gian nghĩa vụ quân sự, ví dụ như Áo, Hy Lạp, Na Uy và Phần Lan. Có lẽ đó là một biện pháp để hạn chế tỷ lệ lựa chọn hình thức "phục vụ dân sự".

Nếu triển khai chế độ "phục vụ dân sự", Điều 45 về "nghĩa vụ quân sự" sẽ thoát khỏi tình trạng vi phạm Điều 24 Hiến pháp 2013 về "quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo". Nếu mở rộng diện "phục vụ dân sự" ra ngoài phạm vi của những người khước từ cầm súng vì lý do tín ngưỡng, thì có thể hạn chế phần nào mức độ vi phạm Điều 16 về "bình đẳng trước pháp luật". Tuy nhiên, không thể và không nên mở rộng phạm vi "phục vụ dân sự" đến mức huy động hết tất cả những người không thực thi "nghĩa vụ quân sự". Bởi vì cái giá phải trả cho sự "bình đẳng trước pháp luật" đối với "nghĩa vụ quân sự" là quá đắt. Thật vậy, việc tổ chức "phục vụ dân sự" trên quy mô cả triệu người không chỉ là rất phức tạp và quá tốn kém, mà đó cũng là nguồn khổng lồ đẻ ra tiêu cực. Hơn nữa, hiệu quả kinh tế xã hội và chất lượng của hình thức "phục vụ dân sự" kém xa so với việc để cho triệu người đó lao động bình thường, rồi nộp thuế, và dùng tiền thuế để thuê nhân công chuyên nghiệp làm phúc lợi xã hội.


Một sáng kiến mới mẻ, có lẽ chỉ có thể nẩy sinh ở nước CHXHCN Việt Nam, là "cho phép đóng một khoản tiền để không phải thực hiện nghĩa vụ quân sự nhằm bảo đảm sự công bằng giữa những người đủ tiêu chuẩn". Nó giúp tăng ngân sách và hạn chế tiêu cực trong quá trình lập danh sách thực hiện nghĩa vụ quân sự. Chi phí tổ chức cho việc thu tiền này cũng thấp hơn nhiều so với triển khai "phục vụ dân sự". Tuy nhiên, giải pháp này không cải thiện triệt để tình trạng bất bình đẳng trước pháp luật, mà ngược lại còn hợp pháp hóa hố sâu ngăn cách giữa kẻ giàu và người nghèo.

Một biện pháp khả thi để giảm bớt sự bất bình đẳng là tăng "công suất dùng người" của quân đội bằng cách rút ngắn thời gian thực hiện "nghĩa vụ quân sự", giống như Áo (6 tháng), Đan Mạch (4 tháng), Estonia (8 tháng) và Hy Lạp (12 tháng)  Hai câu hỏi nảy sinh là: Có thể rút thời gian tại ngũ xuống mức nào để vẫn còn đủ thời gian huấn luyện, nhằm đảm bảo chất lượng chiến đấu của quân đội? Với mức thời gian đó thì quân đội đã có đủ chỗ để thu nạp hết những người phải thực hiện nghĩa vụ quân sự hay chưa?

Giải pháp triệt để thường được áp dụng trong thời bình là xóa bỏ hoặc tạm dừng chế độ nghĩa vụ quân sự, và xây dựng quân đội tự nguyện thay cho quân đội nghĩa vụ. Một số nước tiêu biểu theo xu hướng này là Anh (từ 1963), Ba Lan (từ 9/2009), Bồ Đào Nha (từ 10/2004), Đức (từ 7/2011), Hà Lan (từ 9/1996), Hungary (từ 11/2004), Italia (từ 7/2005), Mỹ (từ 1973), Pháp (từ 7/2001), Rumani (từ 2007), Tây Ban Nha (từ 1/2002)… Trong số 28 nước tham gia liên minh quân sự NATO, chỉ còn 5 nước duy trì chế độ nghĩa vụ quân sự là Đan Mạch, Estonia, Hy Lạp, Na Uy và Thổ Nhĩ Kỳ. Trong số 28 nước tham gia Liên minh Châu Âu (European Union), ngoài Đan Mạch, Estonia và Hy Lạp, thì chỉ còn 3 nước nữa vẫn duy trì chế độ nghĩa vụ quân sự, đó là Áo, Phần Lan và Síp. Riêng Đan Mạch thì đã xây dựng quân đội tự nguyện từ năm 2005, và chỉ trong trường hợp thiếu người tự nguyện gia nhập quân đội mới "rút thăm" để chọn những người buộc phải nhập ngũ.

Có nhiều lý lẽ biện minh cho việc xóa bỏ hoặc tạm dừng chế độ nghĩa vụ quân sự để xây dựng quân đội tự nguyện, chuyên nghiệp. Chẳng hạn, tinh thần chiến đấu của quân đội tự nguyện tốt hơn hẳn loại quân đội nghĩa vụ được phình to bởi những người bị buộc phải cầm súng một cách bất đắc dĩ. Khả năng chiến đấu của quân đội chuyên nghiệp cao hơn hẳn "quân đội nghiệp dư". Tất nhiên phải giả thiết rằng quân đội đó chuyên tâm làm nhiệm vụ quốc phòng, chứ không phải lợi dụng danh nghĩa "quốc phòng" để lao vào làm kinh tế, sa đà vào kinh doanh. Và ít nhất, cơ chế quân đội tự nguyện sẽ không vi phạm quyền tự do tín ngưỡng và không gây ra tình trạng bất bình đẳng trước pháp luật trong việc thực hiện nghĩa vụ quân sự.

Trên đây ta bàn nhiều về biện pháp khắc phục sự vi hiến của Điều 45 Hiến pháp 2013, không phải vì muốn "cầm đèn chạy trước ô tô", mà để chỉ ra rằng việc khắc phục vừa khả thi, vừa có lợi, và hoàn toàn không đáng để phải tiếp tục chấp nhận sự vi hiến đó. Đã đến lúc phải thay đổi tư duy quốc phòng cho phù hợp với tình hình thực tại. Một số ý kiến của nhà báo Huy Đức bàn về vấn đề này trong bài "Động binh, tịnh dân" rất đáng để các nhà hoạch định chính sách quốc phòng tham khảo.


3.  Bắt người dưng thờ phụng

"Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế."
Điều này là vi hiến, vì nó mâu thuẫn với Điều 45 Hiến pháp 2013.

Thật vậy, đa số hạ sĩ quan và binh sĩ của Quân đội nhân dân Việt Nam là những công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự. Nghĩa vụ này được hiến định tại Điều 45 Hiến pháp 2013 trong khuôn khổ "Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân". Hơn nữa, Hiến pháp 2013 chỉ quy định tại Điều 44 rằng "Công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc", và đó là đối tượng hiến định duy nhất mà "công dân có nghĩa vụ trung thành". Vì vậy, với tư cách con em của Nhân dân, những công dân mặc áo lính để thực hiện nghĩa vụ quân sự chỉ có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc và Nhân dân, bảo vệ Tổ quốc và Nhân dân.

Bất cứ chế độ nào, bất cứ chính quyền hay tổ chức chính trị nào thực sự trung thành với Tổ quốc, thật lòng gắn bó với Nhân dân và phục vụ Nhân dân, thì cũng được chung hưởng sự bảo vệ mà những công dân làm nghĩa vụ quân sự dành cho Tổ quốc và Nhân dân. Ngoài khuôn khổ đó, những công dân làm nghĩa vụ quân sự không có nghĩa vụ phải trung thành thêm với bất kỳ tổ chức nào nữa, và cũng không phải bảo vệ riêng bất cứ thứ gì.

Không chỉ quá vô lý, mà còn hết sức hài hước, khi ép buộc cả những người không hề chịu ơn hay gắn bó với Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thậm chí còn oán ghét đảng ấy, lại phải "trung thành… với Đảng""bảo vệ… Đảng, rồi đòi hỏi cả những người không hề yêu thích chế độ, thậm chí còn coi nó là sai lầm lịch sử, lại phải "bảo vệ… chế độ xã hội chủ nghĩa".

Tổ chức mang tên "Quân đội nhân dân Việt Nam" có thể nhận thêm trách nhiệm "trung thành… với Đảng""bảo vệ… Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa". Nhưng khi đó, nó không còn là quân đội của những công dân làm nghĩa vụ quân sự, với nhiệm vụ kinh điển là Quốc phòng, tức là bảo vệ Tổ quốc và Nhân dân trước nguy cơ ngoại xâm. Vì vậy, không thể cưỡng bức những người không theo ĐCSVN phải gia nhập quân đội ấy. Ép buộc công dân phải tham gia một tổ chức mang mầu sắc chính trị trái với lương tâm của bản thân là vi phạm Điều 20 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, trong đó quy định rằng:
"Không ai có thể bị cưỡng bách gia nhập một liên kết."
Tức là vi phạm cả cam kết "tuân thủ… điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên" tại Điều 12 Hiến pháp 2013.

Điều 65 Hiến pháp 2013 còn quy định rằng "lực lượng vũ trang nhân dân" phải "thực hiện nghĩa vụ quốc tế". Nhưng "nghĩa vụ quốc tế" là gì? Nó được xác định theo tiêu chuẩn nào và bằng cơ chế nào? Ai có quyền ấn định cái gọi là "nghĩa vụ quốc tế"? Nếu ấn định sai thì phải chịu trách nhiệm thế nào trước Nhân dân về những mất mát và hy sinh vô nghĩa?

Cho đến nay, nhãn hiệu "nghĩa vụ quốc tế", hay tương tự, đã bị lạm dụng quá nhiều để ngụy trang cho tham vọng viễn chinh của các thế lực cầm quyền. Khi thì vì bảo vệ thế giới tự do, lúc lại nhằm xuất khẩu cách mạng ra toàn thế giới. Danh nghĩa luôn mĩ miều, mà kết cục chẳng mấy khi tốt đẹp. Ra quân luôn "trống dong cờ mở", mà thu quân chẳng mấy lúc vinh quang. Năm xưa Liên Xô đưa quân vào Afghanistan, thì bị Mỹ và đồng minh kịch liệt phản đối. Nay Mỹ và đồng minh lại lao vào Afghanistan để thế chỗ sa lầy. Gọi là giúp đỡ, mà thu được là sự oán ghét của người dân sở tại. Nhân danh cứu người, mà lại gây ra gấp bội lần chết chóc. Lấy cớ phá bỏ vũ khí hủy diệt, mà chỉ dựa vào bằng chứng ngụy tạo của thế lực thèm khát chiến tranh. Lúc triệt hạ bọn độc tài, hay lũ diệt chủng, thì nhân danh "nghĩa vụ quốc tế" đã đành, nhưng khi nâng đỡ chúng lên nắm chính quyền cũng nhân danh "nghĩa vụ quốc tế" nốt. "Nghĩa vụ" kiểu gì mà tráo trở như vậy?

Điều quan trọng là "nghĩa vụ quốc tế" của ai? Lý tưởng của ai thì người ấy cứ việc tự tay cầm súng mà triển khai. Tại sao lại bắt những người dân vô can phải bỏ nước ra đi, hy sinh xương máu ở xứ xa xăm, cho thứ "nghĩa vụ quốc tế" được ấn định bởi cảm tính của giới cầm quyền?

Tóm lại, việc quy định lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với ĐCSVN, có nhiệm vụ bảo vệ ĐCSVN, chế độ xã hội chủ nghĩa và thực hiện nghĩa vụ quốc tế (tại Điều 65 Hiến pháp 2013) là vi phạm quy định "công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự" để "bảo vệ Tổ quốc" (tại Điều 45 Hiến pháp 2013).

Phải khắc phục sự vi hiến của Điều 65 Hiến pháp 2013 như thế nào? Cách đơn giản nhất là xóa bỏ nội dung "kỳ dị" ấy ra khỏi Điều 65. Ngược lại, nếu vẫn muốn bám giữ nó, thì phải sửa lại Điều 45 theo hướng xóa bỏ chế độ nghĩa vụ quân sự và xây dựng một quân đội chỉ tuyển chọn những người tự nguyện. Khi đó, thế lực điều khiển quân đội có thể đề ra những yêu cầu và nhiệm vụ theo ý họ, còn công dân thì tự xác định xem bản thân có chấp nhận gia nhập quân đội ấy hay không. Tất nhiên, để có thể đòi hỏi quân đội phải trung thành với đảng và bảo vệ đảng, thì ĐCSVN còn phải chi tiền riêng để nuôi những người lính tự nguyện, không thể phó mặc trách nhiệm chu cấp quân đội cho người dân đóng thuế.


4.  Tước đoạt quyền sở hữu

"Đất đailà tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý."
Điều này là vi hiến. Để chứng minh kết luận này, ta sẽ quay về cái thời mà sở hữu đất đai còn chưa rơi vào tình trạng "hỗn loạn pháp lý", rồi sử dụng phương pháp quy nạp để đến với thực tại.

Hiến pháp 1946 – tức là hiến pháp đầu tiên của chế độ này – chỉ có một điều duy nhất đề cập đến quyền sở hữu, đó là:
"Điều thứ 12  Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm."
Hiển nhiên, đất đai là một dạng tài sản, do đó quyền tư hữu đất đai của công dân cũng được Hiến pháp 1946 bảo đảm. Đó là điều đã trở thành hiển nhiên và cũng là lời cam kết long trọng của chế độ này khi mới ra đời.

Hiến pháp 1959 quy định:
"Điều 14  Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền sở hữu về ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác của nông dân…"
"Điều 18  Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của công dân về của cải thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở và các thứ vật dụng riêng khác."
"Điều 19  Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân."
Như vậy, Hiến pháp 1959 tiếp tục thừa nhận "quyền sở hữu về ruộng đất… của nông dân", và "quyền sở hữu của công dân về của cải thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở". Rõ ràng, đất đai được người dân mua bằng thu nhập hợp pháp là "của cải thu nhập hợp pháp", vừa để sử dụng ngay, vừa là của cải để dành, và khái niệm "nhà ở" tất nhiên gắn liền với đất ở. Hơn thế nữa, Hiến pháp 1959 cũng thừa nhận cả "quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân". Do đó, đất đai mà người dân đã khai khẩn trước khi Hiến pháp 1959 (Điều 12) quy định "đất hoang… thuộc sở hữu toàn dân", hoặc đã mua hay thừa kế trước khi Hiến pháp 1959 hết hiệu lực vào ngày 19/12/1980, chắc chắn thuộc "quyền sở hữu của công dân" được "Nhà nước bảo hộ". Hiến pháp thời đó không cho bất cứ thế lực nào, kể cả ĐCSVN, được phép xâm phạm quyền sở hữu tư nhân về đất đai. Không tổ chức và cá nhân nào, kể cả tập thể Quốc hội và cá nhân các đại biểu Quốc hội, được phép phủ nhận quyền sở hữu tư nhân về đất đai.

Khi Quốc hội khóa VI (1976-1981) thông qua Hiến pháp 1980 vào ngày 18/12/1980 thì Hiến pháp 1959 vẫn còn nguyên hiệu lực. Cho nên, việc Quốc hội khóa VI biểu quyết xóa bỏ quyền sở hữu hợp pháp của tư nhân về đất đai và ấn định rằng toàn bộ "đất đai… thuộc sở hữu toàn dân" (Điều 19 Hiến pháp 1980) là vi phạm thô bạo Hiến pháp đang có hiệu lực.

Trong một chế độ Cộng hòa, nơi mà "tất cả quyền lực… đều thuộc vào Nhân dân" (Điều 4 Hiến pháp 1959), thì việc xóa bỏ quyền sở hữu của người dân về đất đai là sự vi phạm Hiến pháp nghiêm trọng nhất. Hành động vi hiến đó mặc nhiên phủ định tư cách hợp hiến của Quốc hội khóa VI (đại diện cho quyền lợi, ý chí và nguyện vọng của Nhân dân), và vì vậy cũng phủ định luôn cả quyền "Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp" của tổ chức ấy, vốn được hiến định tại Điều 50 Hiến pháp 1959. Nếu chế độ này thực sự dân chủ, thì các đại biểu Quốc hội khóa VI đã "có thể bị cử tri bãi miễn trước khi hết nhiệm kỳ""tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân", như đã được hiến định tại Điều 5 Hiến pháp 1959.

Cần nhấn mạnh thêm rằng, việc Quốc hội khóa VI quyết định quốc hữu hóa toàn bộ đất đai bằng mĩ từ "sở hữu toàn dân" cũng vi phạm cả Điều 20 Hiến pháp 1959, quy định rằng:
"Chỉ khi nào cần thiết vì lợi ích chung, Nhà nước mới trưng mua, hoặc trưng dụng, trưng thu có bồi thường thích đáng các tư liệu sản xuất ở thành thị và nông thôn, trong phạm vi và điều kiện do pháp luật quy định."
Bởi vì Quốc hội khóa VI chỉ hiến định việc tước bỏ quyền sở hữu tư nhân về đất đai, bao gồm cả nơi sản xuất và kinh doanh – là "tư liệu sản xuất ở thành thị và nông thôn" – mà không kèm theo một giải pháp bồi thường nào cả. Trên thực tế, kể từ đó đến nay, Nhà nước không hề tiến hành bồi thường và cũng chẳng có ý định bồi thường cho những người bị mất quyền sở hữu đất đai.

Quy định sai trái rằng "đất đai… thuộc sở hữu toàn dân" không chỉ vi hiến theo Hiến pháp 1959, mà còn vi hiến đối với cả Hiến pháp 1980. Bởi vì đất đai thuộc sở hữu tư nhân nằm trong diện được đề cập tại Điều 27 Hiến pháp 1980:
"Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của công dân về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, những công cụ sản xuất dùng trong những trường hợp được phép lao động riêng lẻ."
"Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân."
Chính điều hiến định này tiếp tục bảo vệ quyền sở hữu tư nhân về đất đai kể cả khi Hiến pháp 1980 có hiệu lực.

Không chỉ dừng lại ở giai đoạn đó. Chừng nào Hiến pháp kế tiếp còn thừa nhận "quyền sở hữu của công dân về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, công cụ sản xuất…" và thừa nhận "quyền thừa kế tài sản của công dân", thì chừng ấy Hiến pháp vẫn thừa nhận quyền sở hữu tư nhân về đất đai, và quy định "đất đai thuộc sở hữu toàn dân" vẫn là vi hiến. Trên thực tế, hai nội dung vừa kể đã được duy trì tại Điều 58 Hiến pháp 1992:
"Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác…"
"Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp phápquyền thừa kế của công dân."
Và chúng cũng được tiếp tục duy trì tại Điều 32 Hiến pháp 2013:
"1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác."
"2. Quyền sở hữu tư nhânquyền thừa kế được pháp luật bảo hộ."

Hơn thế nữa, việc "quốc hữu hóa" đất đai vốn thuộc sở hữu tư nhân thành "sở hữu toàn dân" bị ngăn cấm bởi Điều 23 Hiến pháp 1992:
"Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hoá."
Và điều đó cũng tiếp tục bị ngăn cấm bởi Điều 51 Hiến pháp 2013:
"Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa."

Tóm lại, trong suốt năm đời Hiến pháp của chế độ này, nếu không phải có được do tham nhũng hay cướp bóc, thì đất đai của tư nhân luôn thuộc phạm trù "thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất" hoặc là tài sản "thừa kế", phải "được pháp luật bảo hộ". Ít nhất thì đất đai mà người dân đã từng sở hữu hợp pháp trước khi Hiến pháp 1980 có hiệu lực luôn là "tài sản hợp pháp của cá nhân". Do đó, Hiến pháp luôn thừa nhận quyền sở hữu tư nhân đối với dạng đất đai ấy. Và đương nhiên, quy định "đất đai… là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân", như tại Điều 53 Hiến pháp 2013, luôn là vi hiến. Nó vi hiến ngay từ lúc "thoát thai", khi Hiến pháp 1959 còn có hiệu lực, vì vi phạm Điều 14, Điều 18, Điều 19Điều 20. Nó vi hiến cả trong cái "nôi chào đời"Hiến pháp 1980, vì vi phạm Điều 27. Nó tiếp tục vi hiến trong khuôn khổ Hiến pháp 1992, vì vi phạm Điều 23 Điều 58. Giờ đây, nó vẫn vi hiến, vì vi phạm Điều 32Điều 51 của Hiến pháp 2013.

Hơn thế nữa, Điều 53 Hiến pháp 2013 còn vi phạm cả Điều 17 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, quy định rằng:
"1. Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản cá nhân cũng như tài sản tập thể.
2. Không được tước đoạt tài sản của bất kỳ ai một cách tùy tiện."
Tức là vi phạm cam kết "tuân thủ… điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên" tại Điều 12 của Hiến pháp 2013.

Không còn nghi ngờ gì nữa, xét về mọi phương diện, Điều 53 Hiến pháp 2013 là vi hiến! Khắc phục thế nào đây? "Cái gì của Xê-da hãy trả lại cho Xê-da", đừng tham lam, tiếc nuối… tài sản của người khác. Hãy xóa bỏ điều khoản áp đặt mang tính chiếm đoạt, ngụy danh "đất đai… là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân". "Nhất cử lưỡng tiện", vừa khắc phục một điều khoản vi hiến, vừa giúp chế độ thoát khỏi một sa lầy, như đã trao đổi trong bài "Hai tử huyệt của chế độ".


5.  Chiếm quyền lực Nhân dân

Điều 2 Hiến pháp 2013 long trọng cam kết:
"1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân."
"2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân…"

5.1.
Nếu "tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân" thì tối thiểu quyền lựa chọn và xác định "lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội" cũng phải "thuộc về Nhân dân". Đây là quyền cơ bản nhất, cốt lõi nhất trong số các "quyền lực nhà nước". Chỉ khi Nhân dân thực thi quyền cơ bản ấy thì Nhà nước mới có thể coi là "của Nhân dân, do Nhân dân", mới thể hiện được rằng Nước này "do Nhân dân làm chủ". Song trên thực tế, chưa bao giờ Nhân dân bầu ĐCSVN làm "lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội". Vậy thì tại sao các nhà lập hiến lại ghi vào Điều 4 Hiến pháp 2013 rằng "Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội"?

Không thể ngụy biện rằng Nhân dân đã ủy nhiệm cho Quốc hội thực hiện cái quyền xác định "lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội". Vì sao?

Thứ nhất, các đại biểu Quốc hội chỉ được bầu ra từ danh sách do bộ máy cầm quyền lựa chọn, dù cử tri bỏ phiếu cho ai thì trúng cử cũng là người của nhà cầm quyền, nên Quốc hội chỉ đại diện cho thế lực cầm quyền, không thể đại diện cho ý chí, nguyện vọng và trí tuệ của toàn thể Nhân dân.

Thứ hai, trong số các nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội được hiến định tại Điều 84 Hiến pháp 1992 (tức là Hiến pháp có hiệu lực tại thời điểm mà Quốc hội thông qua Hiến pháp 2013) và tại Điều 70 Hiến pháp 2013, không có bất cứ điều khoản nào cho phép Quốc hội bầu ra một thế lực chung chung đóng vai trò "lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội". Cụ thể, theo Điều 70 Hiến pháp 2013 thì Quốc hội chỉ có quyền hạn bầu ra mấy chức danh như sau:
"Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập."
Và nhiệm kỳ của các chức danh đó đều được hiến định là "theo nhiệm kỳ của Quốc hội". Quốc hội chỉ được trao quyền hạn trong một nhiệm kỳ năm năm thì không thể được phép bầu ra những chức danh hay quyền lực vô thời hạn như tại Điều 4 Hiến pháp 2013!

Thứ ba, Quốc hội được trao quyền "Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp", song đó là Hiến pháp được hiểu theo nghĩa lành mạnh thông thường. Không thể lạm dụng quyền lập hiến để tùy tiện ghi vào Hiến pháp những điều "không giống ai". Trong các hiến pháp thông thường trên thế giới, không thể có chuyện hiến định quyền lãnh đạo vĩnh viễn của một chính đảng duy nhất đối với nhà nước và xã hội. Nhân danh "hoàn cảnh đặc thù", Quốc hội có thể đưa vào Hiến pháp một số nội dung "khác thường", nhưng điều đó chỉ được coi là "hợp với lòng Dân" nếu được đa số Nhân dân chấp thuận, thông qua phúc quyết toàn dân, trong đó phải biểu quyết riêng rẽ cho từng nội dung cụ thể, không thể "xập xí xập ngầu biểu quyết cả gói".

Các đại biểu Quốc hội và cả giới cầm quyền đều biết rõ, rằng họ không thể áp đặt những đứa con do chính họ đẻ ra sẽ phải làm gì trong 10 năm, 20 năm hay 50 năm tới. Vậy mà họ lại ngộ nhận quyền lực, ngang nhiên áp đặt vĩnh viễn muôn dân, những người ít nhất là bình đẳng và hoàn toàn không vướng víu gì với họ.

Giả sử Nhân dân trực tiếp bầu "lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội", thì họ cũng thừa thông minh để hiểu rằng: Chỉ có thể bầu cho từng nhiệm kỳ. Hiển nhiên là phải dựa vào thể hiện của từng cá nhân và từng tổ chức trong nhiệm kỳ trước để quyết định xem có nên tín nhiệm bầu thêm một nhiệm kỳ nữa hay không. Cũng phải xét xem đương sự có còn đủ điều kiện về sức khỏe và trí tuệ để tái cử hay không. Chẳng ai muốn bầu một vị công thần đã chớm bị bệnh Alzheimer tiếp tục tham gia "lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội".

Hơn nữa, Nhân dân của thế hệ hôm nay không có quyền quyết định thay cho cả Nhân dân của các thế hệ mai sau. Nếu quan niệm rằng cứ sinh ra trước là có quyền áp đặt hậu thế, thì thế hệ cầm quyền cách nay nửa thế kỷ phải tiếp tục duy trì chế độ quân chủ, và thế hệ cầm quyền hôm nay phải tiếp tục theo đuổi "kinh tế có kế hoạch", chứ không thể triển khai cái gọi là "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Thế hệ này đã ăn sang cả phần tài nguyên của các thế hệ mai sau, để lại cho họ một môi trường bị phá hủy nặng nề cùng với những món nợ khổng lồ. Như vậy đã là quá tệ. Không thể ép các thế hệ mai sau phải chịu đựng thêm những sai lầm hay tệ nạn mà thế hệ mình đang cam chịu.

Trong mọi trường hợp, Nhân dân của thế hệ hôm nay và Quốc hội đương nhiệm đều không được phép hiến định quyền VĨNH VIỄN "lãnh đạo Nhà nước và xã hội" của bất cứ "lực lượng" nào.

Tóm lại, Điều 4 Hiến pháp 2013 là vi hiến, vì nó vi phạm Điều 2 Hiến pháp 2013. Khắc phục thế nào đây?

Nếu vẫn muốn bám giữ Điều 4 thì phải sửa lại Điều 2, xóa các nội dung "Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân", "do Nhân dân làm chủ""tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân" ra khỏi Hiến pháp. Vì các nội dung bị xóa là những nét đặc trưng của chế độ "Cộng hòa", nên cũng phải đổi cả tên nước, chẳng hạn thay từ "Cộng hòa" bằng "Đảng quốc", tương tự như mẫu từ "Vương quốc".

Ngược lại, nếu vẫn giữ nguyên Điều 2 cùng với thể chế "Cộng hòa", thì chỉ còn cách xóa bỏ nội dung Điều 4. Làm như vậy sẽ không chỉ khắc phục được một điều vi hiến, mà còn giải thoát cả Hiến pháp Việt Nam và ĐCSVN ra khỏi trạng thái tệ hại, như đã trao đổi trong bài "Hai tử huyệt của chế độ" và bài "Uẩn khúc trong Điều 4 Hiến pháp".

5.2.
Khoản 1 Điều 9 Hiến pháp 2013 viết:
"Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. 
Mặt trận Tổ quốc Việt Namcơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân…"
Nhiều thông tin quan trọng được cô đọng trong đoạn trích này.

Trước hết, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được xác định là "tổ chức liên minh chính trị". Thành phần của nó là
-       "tổ chức chính trị",
-       "các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội" và
-       "các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài." 
Như vậy, các tổ chức thành viên được phân thành 3 tầng. Tầng cao nhất là "tổ chức chính trị". Tầng giữa là "các tổ chức chính trị - xã hội". Và tầng thấp nhất là "các tổ chức xã hội" (thấp vì không được gán cho chức năng "chính trị"). Nhìn vào 3 chữ "các", có thể nhận ra rằng các tác giả rất chú trọng việc nhấn mạnh trạng thái số ít, số nhiều. Cho nên, khi không viết chữ "các" trước "tổ chức chính trị", thì có nghĩa là chỉ thừa nhận duy nhất một "tổ chức chính trị". Có thể đoán rằng "tổ chức chính trị" duy nhất ấy chính là ĐCSVN. Tiếc rằng, các tác giả của Hiến pháp 2013 đã phạm phải sai lầm, quên hiến định "ĐCSVN là tổ chức chính trị", trong khi hiến định cụ thể 5 tổ chức được coi là "tổ chức chính trị - xã hội".

Nội dung kể trên đã xuất hiện trong Điều 1 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam số 14/1999/QH10 (do Quốc hội khóa X thông qua năm 1999), nay được Quốc hội khóa XIII hiến định hóa.

Thành phần của tầng "các tổ chức chính trị - xã hội" được hiến định tại Khoản 2 Điều 9 Hiến pháp 2013:
"Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội…"
" các tổ chức chính trị - xã hội" có nghĩa đó là tất cả, ngoài ra không còn "tổ chức chính trị - xã hội" nào nữa. Công nhân, "nông dân", "thanh niên", "phụ nữ" và "cựu chiến binh" đều được coi là đủ năng lực và đủ tin cậy để tham gia "chính trị". Vậy mà, giữa thời giới cầm quyền tung hô cái gọi là "kinh tế tri thức" hay "kinh tế trí thức", họ vẫn không chịu hay không dám gán cho Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam cái nhãn "tổ chức chính trị - xã hội". Bản thân các vị cầm quyền bây giờ mang đầy học vị và học hàm, sao họ lại e ngại và nghi kị trí thức đến như vậy?

"Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân", nên các tổ chức không thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không có quyền tham gia vào những việc quan trọng thuộc đời sống chính trị của chính quyền này. Điều đó không có nghĩa là mọi thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều được tham gia… (Nếu không phải như vậy thì phân biệt giữa "tổ chức chính trị - xã hội""tổ chức xã hội" để làm gì?)

Trong Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam do Đại hội II thông qua vào năm 1983, Điều 1 được viết như sau:
"Thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bao gồm các tổ chức chính trị - xã hội và những công dân của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thiết tha với sự nghiệp đoàn kết đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa."
Vậy là ban đầu mọi tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều được thừa nhận là "tổ chức chính trị - xã hội". Điều đó cũng phù hợp với Điều 9 Hiến pháp 1992, quy định rằng:
"Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân…"
Nghĩa là mọi thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều là "cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân". Song Hiến pháp 2013 đã rút lại sự "hào phóng" ấy, chỉ trao quyền làm "cơ sở chính trị…" cho "tổ chức mẹ" (tức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam), và "quyền của mẹ" không có nghĩa là "quyền của các con" (tức các tổ chức thành viên).

Việc phân chia các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành 3 đẳng cấp, với ĐCSVN là tổ chức duy nhất thuộc đẳng cấp "tổ chức chính trị" và 5 tổ chức được xác định là "các tổ chức chính trị - xã hội", là bước đi có tính toán trên con đường… ngược chiều dân chủ.

Điều 1 Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1983 (được trích dẫn ở trên) cho thấy: Chỉ những ai tán thành "xây dựng chủ nghĩa xã hội" và chịu thừa nhận Tổ quốc Việt Nam là "Tổ quốc xã hội chủ nghĩa" mới có thể là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Từ đó đến nay, mặc dù Điều lệ đã được chỉnh sửa ít nhiều để thích ứng với tình hình, nhưng bản chất chính trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vẫn không thay đổi, trong khi lực lượng tán thành "xây dựng chủ nghĩa xã hội" ở Việt Nam ngày càng ít đi và chỉ là thiểu số trong Nhân dân Việt Nam. Do đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không đại diện cho toàn thể Nhân dân Việt Nam. Vậy mà Khoản 1 Điều 9 Hiến pháp 2013 lại hiến định rằng "Mặt trận Tổ quốc Việt Namđại diệnquyềncủa Nhân dân".

Không hề được toàn thể Nhân dân bầu ra, thông qua bầu cử phổ thông, mà lại đứng ra "đại diện quyền của Nhân dân" và "là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân", thì đó là bằng chứng cho việc coi thường Nhân dân, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc "tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân". Nghĩa là Điều 9 Hiến pháp 2013 vi phạm Điều 2 Hiến pháp 2013.

"Đảng cộng sản Việt Nam… là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội."
Hiến pháp 1992Hiến pháp 2013 bỏ chữ "duy nhất", chỉ còn giữ lại quy định
"Đảng cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội."
Tuy nhiên, thay đổi đó không có nghĩa là Điều 4 Hiến pháp 2013 tiến bộ hơn Điều 4 Hiến pháp 1980. Vì Điều 9 Hiến pháp 2013 chỉ công nhận duy nhất một "tổ chức chính trị" trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, "là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân", nên dù bỏ đi hai chữ "duy nhất" thì cũng chỉ còn đúng một "lực lượng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội" mà thôi. Hơn nữa, hiến định duy nhất một "tổ chức chính trị" có nghĩa là chỉ chấp nhận sự tồn tại của một đảng chính trị duy nhất, đó chính là ĐCSVN. Nghĩa là Điều 9 Hiến pháp 2013 vi phạm cả quyền tự do lập hội, được hiến định tại Điều 25 Hiến pháp 2013. (Xem bài "Hiến pháp 2013 – Sửa nhầm hay đổi thiệt?" để thấy rằng Hiến pháp 2013 không cho phép hạn chế quyền tự do lập hội.)

Tóm lại, Điều 9 Hiến pháp 2013 là vi hiến, vì nó vi phạm Điều 2 và cả Điều 25 của Hiến pháp 2013.

*
*      *

Trên đây chỉ là mấy ví dụ, chứ không phải là tất cả các điều khoản mâu thuẫn trong Hiến pháp 2013. Vẫn còn những hạt sạn khác, chẳng hạn Điều 10 Hiến pháp 2013, viết rằng:
"Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động…"
Đằng sau điều hiến định này ẩn chứa một nội dung sâu xa: Vì được hiến định là "tổ chức chính trị - xã hội…", chứ không phải là "một tổ chức chính trị - xã hội…" hay "một trong các tổ chức chính trị - xã hội…", nên "Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội" duy nhất "của giai cấp công nhân và của người lao động… đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động…". Tức là người lao động (trong đó có công nhân) không được phép thành lập thêm những tổ chức công đoàn khác để đại diện cho mình và bảo vệ mình, mặc dù trên thực tế Công đoàn Việt Nam không làm nổi nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mọi người lao động. Như vậy, Điều 10 Hiến pháp 2013 vi phạm quyền tự do lập hội, được hiến định tại Điều 25 Hiến pháp 2013.

Một số điều khoản vi hiến của Hiến pháp 2013 được truyền nhiễm từ mấy Hiến pháp trước. Lẽ ra, thời gian trôi qua thì nhận thức cũng phải khá hơn, đủ để nhận ra và khắc phục phần nào những sai lầm ấu trĩ đã phạm phải trong quá khứ. Nhưng tiếc thay, bên cạnh những di sản vi hiến vẫn được "bảo toàn", lại xuất hiện thêm những sáng tạo vi hiến mới

Điều 74 Hiến pháp 2013 quy định Uỷ ban thường vụ Quốc hội có nhiệm vụ "giải thích Hiến pháp…". Bao giờ thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội giải thích, và sẽ giải thích thế nào về những mâu thuẫn mang tính vi hiến trong Hiến pháp 2013?

Điều 119 Hiến pháp 2013 quy định: "Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp." Làm sao có thể đòi hỏi "Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp", khi chính bản thân Hiến pháp cũng không "phù hợp với Hiến pháp"? Biết tuân theo điều nào của Hiến pháp khi chúng mâu thuẫn với nhau?

Đối với Hiến pháp 2013, khi thông qua nó thì Quốc hội đã tiên phong thực hiện "hành vi vi phạm Hiến pháp" đầu tiên. Trong các "hành vi vi phạm Hiến pháp", thì ban hành Hiến pháp vi hiến là "hành vi vi phạm Hiến pháp" nghiêm trọng và đáng chê trách nhất. Nghiêm trọng bởi nó gây tác hại cho cuộc sống của hơn 90 triệu người dân và cả tương lai Dân tộc. Nghiêm trọng bởi nó đẩy các nhà lập pháp và hành pháp rơi vào hoàn cảnh buộc phải vi hiến, vì nếu tuân theo điều này thì lại vi phạm điều kia. Nghiêm trọng bởi "hành vi vi phạm Hiến pháp" này mang tính "đầu têu", vì Quốc hội nêu gương xấu cho bộ máy chính quyền ở tất cả các cấp trong việc vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Đáng chê trách bởi lỗi này dễ tránh nhất, vì lập hiến ở vị thế chủ động, không bị lệ thuộc vào các văn bản pháp quy khác.

Điều 119 Hiến pháp 2013 cũng quy định: "Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý." Vậy Quốc hội sẽ "xử lý" cái "hành vi vi phạm Hiến pháp" ấy của chính mình như thế nào?

Bất luận Quốc hội sẽ giải thích và tự xử lý thế nào, thì chúng ta cũng phải băn khoăn với câu hỏi: Một văn bản chứa đựng nhiều điều khoản mâu thuẫn với nhau như thế, thì có xứng đáng là Hiến pháp hay không?

Ngày 4 tháng 9 năm 2014