Feb 18, 2015

Ngày Xuân chán thịt nói chuyện rau muống

Ngày Xuân chán thịt nói chuyện rau muống        

Bùi Hoài Mai

Các món theo chiều kim đồng hồ: Rau muống xào tỏi (đĩa to nhất ở giữa), rau mùng tơi chần chấm muối vừng (có kèm chút lạc), thịt bê xào với ớt ngọt Đà Lạt, trám đen om nghiền ăn với lạc rang giã dập. Châu chấu rang với nước dưa, đầu cá nấu canh măng chua và kho với ớt. (Hình trong bài Soi lấy từ FB của họa sĩ Bùi Hoài Mai)

Ngày Xuân nơi đâu cũng ứ hự thịt, thì ta đâm nhớ rau. Thôi bàn chuyện rau vậy. Đầu tiên là rau muống.
Rau muống là thứ rau bình dân nhất, thế nhưng hầu không có loại rau nào địch nổi nó về sự phong phú trong khi chế biến. Ăn sống, luộc, xào, nấu canh, làm nộm, muối chua… Rồi cách chế biến theo kiểu nào cũng còn tùy thuộc theo mùa.
Với rau muống cuối vụ, khi trời bắt đầu đổ heo may, sáng ra bắt đầu xuất hiện sương giá là lúc những cọng rau bắt đầu sắt lại. Với mùa này ra chợ đừng cố chọn những mớ rau mơn mởn. Mùa này, những mớ rau ngắn, lá nhỏ , tuy hơi cứng nhưng xào kĩ hơn một chút với tỏi thì thật là ngon.
Rồi khi những cơn mưa đầu mùa vừa đến, chỉ tuần sau, những ngọn rau non măng đã vươn ra. Đấy là lúc có thể thưởng thức một đĩa rau luộc chấm tương với mước rau đánh dấm bằng lá me hoặc chanh. Mùa sấu ra quả, món rau luộc là phải đánh dấm sấu. Một phần sấu được dầm ra làm vị chua cho nước luộc, dăm quả vớt vặt tươi từ cây nghiền nhuyễn trộn với xi dầu, tỏi, ớt  làm nước chấm.

Tất cả những món này đều được đựng bằng loại gốm Mai của xưởng gốm họa sỹ Bùi Hoài Mai tại làng Na, xã Hiên Vân, Tiên Du, Bắc Ninh.

Nhưng để luộc một đĩa rau ngon cũng chả dễ. Trước tiên, khi nhặt rau phải ước lượng được độ già non của rau để tính được thời gian luộc. Khi nước sôi rồi thì không nên đậy vung. Nước luộc phải có tí muối. Kỹ hơn nữa khi đi chợ đảo qua hàng cua, xin hai cái mai cua đồng, về rửa sạch thật sạch thả vào nồi nước sôi. Rau luộc với vỏ cua sẽ xanh ngắt (bạn có thấy loại loại rau nào khi nấu canh cua bị vàng chưa?) Rau chín rồi nên vớt ra một cái rổ và tãi đều rau ra cho thoáng, để đến khi chuyển ra đĩa và gắp lên, các cọng rau khô đều không bị dính vào nhau.

Thế còn xào rau muống thì sao?
Để xào một đĩa rau muống cũng có vài kiểu xào. Xào tái và xào nhừ. Mỗi cách đều có vị ngon riêng. Nếu hôm nào đó tiếp khách, cần một đĩa rau xào đẹp, ta chọn cách xào tái. Thường xào tái, người ta phải vặn rau sau khi rửa, rồi chần rau qua nước sôi, rồi tráng lại bằng nước lạnh. Để chọn rau muống xào tái, thường nên chọn loại rau cọng to và ngắt bớt lá đi. Thả tỏi dập nhỏ vào chảo nóng già lửa, nhưng đừng có phi vàng, mùi thơm thế là bay mất vào không khí, còn lại cái xác tỏi chẳng để làm gì. Thả tỏi vào thôi, rồi cho rau vào theo ngay cho mùi thơm tỏi quyện vào cọng rau, đảo thật đều và nhanh tay. Khi xếp lên đĩa, các cọng rau trông phải còn tươi nguyên và ăn giòn giòn.
Cách xào thứ hai – bình dân hơn – là xào nhừ. Đó thường là loại rau cuối mùa và già. Loại này nên xào nhiều tỏi; một phần tỏi được giã nhuyễn, một phần được giã dập. Phần tỏi giã dập cho vào chảo dầu nóng phi cho thơm rồi cho rau vào đảo kĩ cho đến khi rau thật mềm. Cho tỏi giã nhuyễn và thêm cùng chút nước, đảo thêm một chút sẽ được một đĩa rau xào có nước xào sền sệt. Nước rau xào tạo thành món nước xốt trộn cùng với cơm ăn khá ngon. Có thể cho thêm chút lá tía tô thái chỉ trước khi tắt lửa, hoặc rau ngổ (rau ôm) cũng tăng vị cho món rau xào này.

Theo chiều kim đồng hồ: Rau muống xào tỏi, dùng cọng to, xào nhanh tay để rau có vị giòn. Canh váng đậu nấu với cà chua, nem rán chấm với xốt mayonaise (sản xuất theo hương vị Nhật) và cọng rau muống muối cũng với cà rốt và củ cải trắng theo cách làm kim chi (Hàn Quốc)

Hôm rồi đi ăn ở một nhà hàng, họ không muốn đĩa rau xào của họ bình dân quá nên cho thêm nấm hương, thế nhưng hình như không hợp. Rau muống là thứ rau bình dân, cái cách hơi xô bồ với các vị hơi mạnh rõ ràng hợp hơn. Chả thế mà rất ngon miệng khi rau muống xào cho thêm chút chao (đậu phụ nhự) – một thứ có mùi lẫn vị khá nặng nhưng lại tăng độ hấp dẫn. Nếu không có chao thì cho thêm một chút mắm ruốc cũng được. Bắc ra vắt tí chanh vào…
Nói chuyện nêm nếm khi xào, dùng gì nào? Thông thường cứ dùng nước mắm. Trong bếp ăn ngày nay, khi người ta hay dùng  bột gia vị, có vẻ rất tiện lợi đấy nhưng cuối cùng món nào cũng giống món nào, rau nào cũng như rau nào. Cứ dùng tí nước mắm ngon thôi. Cũng có người “phức tạp” hơn, khi rau muống đã chần qua rồi, họ đem trộn với muối và nước mắm vừa ăn, thêm tí ti dấm (cho rau giòn và xanh), đến khi xào là lửa cứ thế phừng phừng, tay đảo rau đều không phải dừng nếm mặn nhạt nữa, rau sẽ vừa đều muối vừa xanh.

Và rau muống cũng có thể nấu canh
Canh rau muống cũng có nhiều kiểu nấu. Bình dân nhất là canh rau muống nấu suông với cà chua. Rồi canh rau muống nấu ngao (ở vùng quê xa biển thì nấu với trai, hến cũng được). Nấu với những con ở biển như ngao thì chú ý đừng thêm muối vì con ngao đã mặn. Và rau muống bắt buộc phải vặn cho giập giập rồi mới nấu.
Ở miền Trung có một món canh rau muống rất phổ biến là nấu với mắm ruốc. Kinh nghiệm để canh không tanh là cho chút mắm ruốc vào nồi từ khi nước lạnh, đun cho sôi rồi vặn nhỏ lửa và hớt bớt bọt, sau đó mới cho rau vào. Rau thì nên xắt khúc bằng ba đốt ngón tay.
Thế nhưng tuyệt vời nhất là món canh rau muống nấu riêu cua cùng với khoai sọ của miền Bắc, tất nhiên có thêm vài cọng rau nhút để nồi canh dậy mùi thơm. Khoai thì phải hầm trước chứ đừng có thả vào cùng rau, múc ra rau thì nhũn mà khoai thì ném chó chó chết.
Miền Nam thì có món canh rau muống nấu với me và giá, ăn cho vị mát. Nhưng mà giờ cũng hiếm khi thấy ngoài hàng nấu.
Ngoài ra có thể làm nộm, làm gỏi rau muống. Hay dùng cọng rau muống bỏ hết lá muối chua ăn rất giòn…. Thôi thì đủ cả.
Những món ăn này cũng được đựng trong các món gốm Mai. Gốm Mai được lấy cảm hứng và phát triển trên nền tảng truyền thống gốm Việt, nhất là đồ gốm giai đoạn Lý- Trần.

Hình như thói quen ăn rau muống là truyền thống của người miền Bắc, sau năm 75 mới lan dần vào Sài Gòn. Tuy vậy, khi vào Nam, rau ở đó trông thì khá mỡ màng nhưng không có được cái vị như rau miền Bắc. Rau muống miền Bắc có hương vị của mùa. Vùng đất nơi mình sống ở xã Hiên Vân, Tiên Du, Bắc Ninh, là một vùng đất bán sơn địa cuối cùng khi bắt đầu của đồng bằng, dân làng nơi đó vẫn tự hào là làng mình nơi đó có trồng giống rau muống tiến vua (vua ta xưa cũng ăn rau muống?) Sau đợt mưa rào đầu mùa, những thửa ruộng quanh chân đồi no nước mọc lên những cọng rau muống mập mạp, có mầu tía, ăn có vị giòn. Đặc biệt, nước luộc vị rau này có vị ngọt. Những mớ rau đặc biệt này khó có khi nào đến được chợ. Những người sành ăn đã chực ở đầu ruộng giành nhau từng mớ. Khi ăn mớ rau này cũng là lúc chính thức bước sang hè.

NGHĨ GÌ NĂM MỚI ?


NGHĨ GÌ NĂM MỚI ?

Bùi Công Tự

Chiều muộn 27 Tết, ở nhà một mình. Ở thành phố nhưng sâu trong hẻm nên lúc này yên tĩnh như nơi làng quê. Vợ chồng thằng con trai, từ trưa hôm qua đưa nhau về Cần Thơ ăn Tết sớm với gia đình ông nhạc .Có thằng cháu gọi mình là cậu ruột đem két bia đến thăm. Đang pha trà tiếp cháu thì chuông điện thoại reo, một người bạn từ Hà Nội nói lời chúc năm mới. Bỗng sực nhớ ra, lâu nay mình không viết gì, đơn giản là những điều mình suy nghĩ, chưa kịp viết ra thì mọi người đã nói trước rồi. Chỉ sáng sáng ở quán cà phê Tóc Mây, tụ tập cùng mấy ông bạn già sau khi tập thể dục thì mình vẫn bám sát tình hình thời cuộc phân tích hăng ngày.


Vậy viết gì đây ? Cái đầu còn nóng ,trái tim còn rung rinh .Thôi thì cứ nghĩ gì viết nấy nhé. Để có cảm xúc, mình liền mở TV, cho cái không khí xuân rộn rã sắc màu từ cái màn hình lan tỏa khắp thư phòng .

Xuân đến, Xuân đi, Xuân lại lại. Theo quy luật của Vũ trụ thì đã nhiều triệu năm .Thế mà mỗi khi Xuân về, Mùa Xuân luôn luôn được gọi là Xuân mới. Với người VN chúng ta, Xuân mới tự trong tâm hồn nhân hậu đầy niềm tin yêu của mỗi con người.

Năm 2014 con thuyền VN đã vượt qua một khúc sông nhiều ghềnh thác. Đầu năm Trung Quốc gây hấn đem giàn khoan dầu HD 981 cắm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của nước ta. Nhưng rồi chúng đã phải rút đi trước sức mạnh phản kháng mạnh mẽ của nhân dân ta và dư luận Quốc tế. Về sự kiện này ,có người cho rằng đó chỉ là hỏa mù TQ tung ra để đánh lạc hướng dư luận ,trong khi họ tập trung xây dựng căn cứ quân sự, có cả sân bay một cách phi pháp tại các đảo Chữ Thập và Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa của VN. Có điều qua vụ này ,về phía VN ,người ta biết được phần nào quan điểm của các chính khách hàng đầu về mối quan hệ với TQ ? Dư luận đã hoan nghênh phát ngôn rõ ràng ,kiên quyết của ông TT Nguyễn Tấn Dũng và không tán thành phát ngôn của ông Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh vì nó nhũn như con chi chi .

Về kinh tế, chúng ta nhận thấy các số liệu đưa ra từ CP đều rất đẹp ,trong khi nhận định và phân tich của rất đông chuyên gia thì lại trái ngược .Dù sao đến thời điểm này ,nhìn chung nhân dân ta vẫn có được cái Tết no ấm .Tại khu chế xuất Tân Thuận TP HCM ,tôi thấy CN vẫn tăng ca ,nhận đủ lương tháng 13 và tiền thưởng Tết. Những kết quả đạt được về kinh tế trong năm qua ghi nhận sự cố gắng không mệt mỏi của các nhà doanh nghiệp ,cùng sự cần cù bươn trải một nắng hai sương của nhân dân lao động khắp nơi.

Những biện pháp tái cơ cấu nền kinh tế thực hiện từ năm 2010 đến nay chưa cho thấyhiệu quả .Dư luận vẫn phàn nàn rất nhiều về một bộ máy cồng kềnh, chỉ tổ tốn ngân sách .Một nhà nghiên cứu viết rằng VN chưa có một chính phủ chuyên nghiệp biết quản lý đất nước ,mà quan trọng là quản lý kinh tế.

Cho nên năm qua và chắc cả năm tới "tham nhũng vẫn ổn định ..". Sự ra đi của ông Nguyễn Bá Thanh phải chăng là thắng lợi của bọn tham nhũng?

Thưa các bạn ,chúng ta đang sống trong một thế giới đầy bất trắc ,mỗi ngày vẫn có hàng nghìn người chết vì chiến tranh ,ở Ukraina ,ở Trung Đông .Những mâu thuẫn về chủ quyền lãnh thổ ,về tôn giáo và sắc tộc và về kinh tế ngày càng gay gắt .Nguy hiểm nhất là sự xuất hiện cái gọi là Nhà nước Hồi giáo trên một vùng lãnh thổ rộng lớn ở Trung Đông ,đã gây ra những vụ khủng bố dã man ở nhiều nơi trên TG.

Thế giới đang nằm trong tay các siêu cường .Các siêu cường lại thường có mâu thuẫn ,hằm hè nhau .Trong khi đó các nước nhỏ ,trong đó có VN ,lại là quân cờ trong tay các siêu cường.

VN chúng ta đang chịu ảnh hưởng của hai siêu cường là TQ và Mỹ. Giois chính khách cũng ngả nghiêng nên có nguy cơ là dân tộc ta lĩnh đủ. Việc đề ra được một chiến lược thật đúng đắn là rất khó trong hoàn cảnh như nhiều nhà phân tích quốc tế nhận định là chúng ta không có lãnh tụ.

Dù sao, trong lúc đầu xuân năm mới cũng vẫn nên mong ước điều gì?

Trước hết tôi mong chủ quyền và lãnh thổ quốc gia ,biển đảo được bảo vệ vững chắc.

Nhân dân thực sự được hưởng các quyền tự do dân chủ.

Nhà nước có một Chính phủ minh bạch ,có tính chuyên nghiệp trong quản lý và tư pháp.

Liệu những mong muốn trên của tôi có bị xem là xa xỉ?

Cuối cùng, thay cho lời chúc năm mới, xin mời các bạn đọc mấy câu thơ của nhà thơ Nguyễn Thúy Quỳnh:

Chào năm mới, ta ngộ ra điều này
Thôi đừng mơ những gì xa xỉ
Chỉ mong mỗi ngày thứ dậy
Còn nhìn thấy mặt trời
Còn nhìn thấy mọi người
Còn hơi ấm người ta yêu nhất


Vẫn được vẹn nguyên giữa bao nhiêu bất trắc
Thế đã là hạnh phúc

Còn gì hơn ? 

Sài gòn 21h30 ngày 29 Tết 
B.C.T

Trò chuyện với mùa xuân

KHAI BÚT ĐẦU XUÂN
Khai bút đầu xuân:
Trò chuyện với mùa xuân


Từ trong mưa gió dập vùi
Sáng nay lộc biếc đâm chồi nảy xanh
Dịu dàng hạt nắng mong manh
Tiếng chim ríu rít chuyền cành gọi xuân
Sắc hoa như níu lấy chân
Bao nhiêu thương nhớ để gần cõi yêu
Cỏ cây muốn nói bao điều
Vu vơ ta để một chiều biếc trong
Biết rằng sắc sắc không không
Mà xuân vẫn khởi tự lòng nên Giêng.



Sáng mùng 1 tết ất Mùi 2015
Mai Văn Lạng

XUÂN VỀ, ĐỌC LẠI CÁC BÀI KỆ XUÂN CỦA 3 THIỀN SƯ ĐỜI LÝ

XUÂN VỀ, ĐỌC LẠI CÁC BÀI KỆ XUÂN CỦA 3 THIỀN SƯ ĐỜI LÝ


Một cách hiểu các bài kệ Xuân 
của ba thiền sư thời Lý

Tạ Quốc Tuấn
Lời dẫn: Thưa Ông Tạ Quốc Tuấn, xin cảm ơn Ông đã lại gửi bài cho chúng tôi. Chúng tôi đăng bài này lên, trước là dâng lên Tam Bảo chứng minh Bồ Đề tâm của Ông, sau là để chia sẻ cùng các Phật tử và khách văn khắp hoàn vũ thưởng thức bên ấm trà sen Tết cổ truyền. 
Xin dâng lời cầu nguyện Đức Như Lai ban phúc lành cho Ông cùng bửu quyến và tất cả những ai ghé qua hiên trà này, đọc bài này đều được hồng ân của Phật.
Một điều đáng làm chúng ta chú ý là những bài thơ xuân đầu tiên trong văn học Việt-nam mà hiện nay vẫn còn tồn tại lại là những bài kệ xuân của ba thiền-sư thời nhà Lý (1009-1225) là Chân-không, Mãn-giác và Giác-hải. Hơn nữa, tuy nói đến xuân nhưng những bài kệ này thực sự không phải là những bài thơ sáng tác để tả cảnh xuân, ý xuân, ảnh hưởng của xuân đối với thiên nhiên, đối với con người, như những thi tác của các thế hệ sau, mà chỉ là những bài kệ (do đó chúng tôi tạm gọi là những bài “kệ xuân”) làm để trả lời một câu hỏi hoặc làm lúc tác giả sắp viên tịch. Tác giả mượn cảnh xuân hoặc ý xuân để diễn tả một vấn đề giáo lý Phật giáo nào đó, nhất là vấn đề liên quan đến sự sống chết của con người. 

I.- Lời Kệ của Thiền-sư Chân-không

Bài thơ xuân đầu tiên là lời kệ của thiền-sư Chân-không (946-1001).

Người đời luôn luôn có nhiều thắc mắc mà khi không giải đáp được một cách thỏa đáng thì sinh ra đau khổ, buồn sầu. Một trong những thắc mắc đó, và có thể coi là thắc mắc lớn lao, quan trọng nhất, khiến nhiều người phải bận tâm nhất, là sự sống chết của con người.

Từ nghìn xưa, con người vẫn thắc mắc là mình từ đâu đến và khi chết sẽ đi đâu, cũng như thắc mắc là con người sinh ra ở trên đời để làm chi bởi vì trước sau, sớm muộn gì, con người cũng phải chết. Do đó mới có tình trạng con người tham sống sợ chết, và tìm đủ trăm phương nghìn kế để kéo dài cuộc sống của mình. Việc Tần Thủy-hoàng-đế Doanh-Chính 秦始皇帝 嬴政 (Tần-vương năm 246-221 TCN và Thủy-hoàng-đế năm 221-209 TCN) năm 219 TCN đã sai Từ-Phúc 徐福 dẫn hơn một nghìn đồng nam đồng nữ vượt biển đi tìm thuốc trường sinh bất tử, cũng như việc Hán Vũ-đế Lưu-Triệt 漢武帝 劉徹 (tại vị năm 140-86 TCN) cho luyện kim đan để mong được sống lâu, là những thí dụ điển hình.

Ngay cả các vị tu sĩ vốn không nên có những thắc mắc về vấn đề sống chết của con người, nhưng cũng có một vài vị vẫn cưa đạt được đến độ này. Chẳng hạn có một vị tăng một hôm đến hỏi thiền sư Chân-không là khi xác thân người ta bại hoại thì sẽ như thế nào. Thiền sư Chân-không bèn đáp bằng hai câu kệ:

春來春去疑春盡,
花落花開只是春.

Xuân lai xuân khứ nghi xuân tận,
Hoa lạc hoa khai chỉ thị xuân.

Hai câu này đã được cố giáo sư Nguyễn-đăng-Thục (1909-1999) dịch sang Việt ngữ như sau:

Xuân qua xuân lại ngờ xuân tận,
Hoa nở hoa tàn vẫn là xuân.

Thiền sư Thích Thanh-từ (s. 1924) cũng dịch tương tự:

Xuân đến, xuân đi ngỡ xuân hết,
Hoa nở hoa tàn chỉ là xuân.

Trong khi hai dịch giả trên khi dịch sang thơ Việt ngữ vẫn giữ nguyên thể thất ngôn của nguyên tác thì Phạm-tú-Châu lại dịch theo thể lục bát:

Xuân qua lại, ngỡ xuân tận,
Hoa dù rụng nở, vẫn hoàn tiết xuân.

Thiền sư Chân-không đã mượn trạng thái xuân đến và xuân đi, cũng như hình ảnh hoa nở hoa tàn, để nói lên một sự thực không ai phủ nhận, dị nghị được: đó là đừng nên nghĩ rằng sau khi xuân đến rồi đi thì cho rằng xuân đã hết, đã tận, và không bao giờ còn nữa, cũng như đừng cho rằng khi hoa nở thì xuân đến còn lúc hoa tàn thì xuân đã hết. Sự thực thì xuân chỉ có tuần hoàn, nghĩa là xuân đến rồi đi, rồi lại đến rồi lại đi, cứ tiếp tục như vậy từ thuở khai thiên lập địa cho đến hiện tại và sẽ còn tiếp diễn trong tương lai cho đến vô cùng tận. Nói cách khác, xuân là một trạng thái thiên nhiên bất biến; còn sự đến và đi của xuân, cũng như sự nở và tàn của hoa, chỉ là một sự tuần hoàn thôi.


Con người cũng vậy. Tuy nhìn bề ngoài chúng ta thấy rõ ràng con người sinh ra, lớn lên, rồi chết đi, nhưng cái mà chúng ta nhìn thấy đó chỉ là cái thân xác, cái sắc, cái tướng thôi. Nó chỉ là cái hình thể vật chất, nghĩa là cái vẻ bề ngoài, luôn luôn thay đổi, nên có tính cách phù du, tạm bợ. Đó là cái nhìn của người phàm. Trái lại, nếu suy ngẫm kỹ hơn, chúng ta sẽ nhận thấy cái mà chúng ta nhìn thấy và gọi là thân xác, thực ra chỉ là một tổng hợp của nhiều yếu tố, như: máu, thịt, da, xương, tủy, gân, v.v. Tất cả những thứ ấy là những yếu tố bất chắc, không bền vững, dễ bị hủy hoại, dễ hư nát. Đó không phải là con người thật. Giống như mùa xuân có đến có đi, nhưng xuân vẫn là xuân, bởi vì xuân bất biến, con người thể xác tuy trải qua các giai đoạn sinh ra, lớn lên, rồi chết đi, thân xác tiêu tan hết, nhưng con người thật, nghĩa là cái hồn của con người, vẫn còn, bởi vì nó cũng bất biến.

Nếu con người đã như vậy thì còn thắc mắc đến cái còn, cái mất, cái bại hoại của thân xác mà làm chi? Chúng ta không nên chấp vào cái lý của mình để nhìn vào thế gian và sự đời, mà phải biết tự lọc lấy cái tâm mình, để có thể hòa mình vào với vũ trụ thiên nhiên. Hay như lời giáo sư Nguyễn-đăng-Thục,

"… thực tại nguồn sống thường nhiên tiềm tàng linh động đằng sau hiện tượng thiên hình vạn trạng, hiện tượng hủy diệt biến đổi, ẩn hiện, mà cái nguồn sống đại đồng sinh sinh tự nhiên luôn luôn tồn tại, không có sống chết bất di bất dịch."(1)

Tiện đây chúng tôi xin mở một dấu ngoặc để nói là câu thứ hai lời kệ của thiền sư Chân-không "Hoa lạc hoa khai chỉ thị xuân" nếu dịch đúng nguyên văn sẽ là "Hoa rụng hoa nở chỉ là xuân." Tuy nhiên, câu này đã được giáo sư Nguyễn-đăng-Thục dịch là "Hoa nở hoa tàn vẫn là xuân", và Phạm-tú-Châu dịch là “Hoa dù rụng nở, vẫn hoàn tiết xuân” như vậy đã lột được hết ý của thiền sư Chân-không, hơn là câu dịch "Hoa nở hoa tàn chỉ là xuân" của thiền sư Thích Thanh-từ.

Thực vậy, ý của thiền sư Chân-không là khi thấy xuân đi, cũng như thấy hoa tàn lúc xuân đi, thì không nên nghĩ rằng xuân đã hết, vì sau khi xuân đi rồi xuân sẽ lại đến, cũng như sau khi hoa tàn rồi hoa sẽ lại nở. Đó chỉ là những biến chuyển tuần hoàn, nghĩa là trạng thái dịch của xuân thôi, chứ xuân thì vĩnh viễn bất biến. Như vậy, từ “vẫn” trong câu dịch của giáo sư Nguyễn-đăng-Thục và của Phạm-tú-Châu dùng đúng hơn, vì từ “vẫn” diễn tả được cái bất biến của xuân. Từ “vẫn” có ý là "cứ như thế", nghĩa là nó ngụ ý chỉ sự không thay đổi, sự bất biến của một trạng thái (cũng như phẩm chất). Hơn nữa, từ “vẫn” nói lên ý niệm khẳng định, đề quyết, chắc chắn. Trái lại từ “chỉ ” mà thiền sư Thích Thanh-từ dùng cho thấy sự không chắc chắn, thiếu khẳng định, vì từ này diễn tả ý "có thế thôi" hay "không có gì khác", nghĩa là tuy nó nói lên một sự thực đơn độc, duy nhất, nhưng không mang ý bất biến, nên không lột được hết ý của thiền sư Chân-không.

II.- Lời Kệ của Thiền-sư Mãn-giác

Mặt khác, mỗi khi xuân sang, những người còn trẻ, còn sức lực, thì vui mừng đón xuân vì cho rằng xuân sẽ đem lại cho họ những cái hay, cái tốt, cái lạ, cái may mà năm qua họ không có, hay bị mất đi. Tuy nhiên, cũng có nhiều người, đại đa số là những người già, lại có thái độ bi quan, yếm thế hơn. Họ thấy rằng mỗi một mùa xuân tới thì họ lại già thêm một tuổi; hơn nữa, xuân lại đến quá nhanh khiến họ không sao trở tay kịp, vừa mới ngày nào "mang tiếng khóc bưng đầu mà ra" (Cung Oán Ngâm Khúc, câu 56), như lời Ôn-như-hầu Nguyễn-gia-Thiều (1741-1798), thế mà chưa chi đã lâm vào cảnh mà Tản-đà Nguyễn-khắc-Hiếu (1889-1939) mô tả là "cái già sồng sộc nó thì theo sau " (Chơi Xuân Kẻo Hết Xuân Đi, câu 84)

Thêm một mùa xuân là thêm một năm được thấy những đổi thay trong vũ trụ cũng như chung quanh họ. Tệ hơn nữa là tất cả những đổi thay này, họ không cách nào ngăn chặn được, không thể kìm hãm hay níu kéo lại được, vì họ quá bé nhỏ, chỉ là những hạt cát trong vũ trụ bao la bát ngát, vì họ thấy mình bị giam hãm trong một cái khung chật hẹp là quả đất nơi họ đang sinh sống và cái khung thời gian quá ngắn ngủi là cuộc đời trên dưới một trăm năm trong khi thiên nhiên lại vô hạn vô biên, vô thủy vô chung, vô cùng vô tận. Họ giống như Khổng-tử 孔子 (550-479 TCN) của Trung-quốc đã thốt lên lời "Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ!" 逝者如斯夫, 不舍晝夜 (Luận Ngữ, q. 9, ch. 16), nghĩa là "Trôi mãi như thế kia, ngày đêm không thôi!", khi đứng bên giòng sông nhìn thấy nước cứ trôi đi mãi về phía chân trời xa tắp mù khơi không bao giờ cùng tận, giống như giòng đời biến hóa (thiên địa chi hóa 天地之 化) mãi mãi không lúc nào ngừng.

Hoặc như Nguyễn-Du (1766-1820), họ đã phải thở than:

     Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. (Kiều, câu 3-4)

Đối với những người có thái độ này, thiền sư Mãn-giác (1051-1096) khuyên rằng tất cả mọi sự vật trong vũ trụ không có gì là vĩnh viễn cả, tất cả chỉ tại con người đã đem mình đối chiếu với vũ trụ và đem cái đoản sinh sánh với cái trường tồn, tất cả chỉ tại mình tự đặt mình đứng bên ngoài vũ trụ mà ngắm nhìn vũ trụ, không biết hội nhập vào vũ trụ thiên nhiên.

春去百花落,
春到百花開.
事逐眼前過,
老從頭上來.
莫謂春殘花落盡,
庭前昨夜一枝梅.

Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tùng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Sau đây là bản dịch bằng thơ Việt ngữ của Ngô-tất-Tố (1894-1954):

                        Xuân trỗi trăm hoa rụng
                        Xuân tới, trăm hoa cười.
                        Trước mắt, việc đi mãi,
                        Trên đầu, già đến rồi!
                        Đừng tưỏng xuân tàn hoa rụng hết,
                        Đêm qua, sân trước, một cành mai.

Bài thơ dịch thứ hai, theo thể lục bát, là của Tản-đà Nguyễn-khắc-Hiếu:

Xuân đi muôn vạn hoa tàn
Xuân về thắm lại ngập tràn những hoa
Việc đời thế sự đi qua
Trên đầu tuyết điểm một vài cọng sương
Chờ cho xuân hết hoa tàn
Đêm qua sân trước nở vàng cành mai

Người dịch thứ ba là Thiền sư Thích Thanh-từ:

                        Xuân đi trăm hoa rụng
                        Xuân đến trăm hoa cười
                        Trước mắt việc đi mãi
                        Trên đầu, già đến rồi
                        Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
                        Đêm qua – sân trước – một cành mai.

Người dịch thứ tư là Lê-mạnh-Thát (s. 1944).

                        Xuân đi trăm hoa rụng,
                        Xuân đến trăm hoa cười.
                        Việc đời qua trước mắt,
                        Già đến trên đầu rồi !
                        Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
                        Ngoài sân đêm trước một cành mai.

Trong quan niệm của thiền sư Mãn-giác, chúng ta không nên quá bi quan trước sự tuần hoàn của vũ trụ thiên nhiên, không nên quan tâm tới cảnh xuân đến thì hoa nở, xuân đi thì hoa tàn, cũng như sự đời trôi qua trước mắt vô cùng tận và đem đến cái già trên đầu mình. Thực vậy, chúng ta đừng nên nghĩ là lúc xuân tàn tất cả mọi bông hoa đều rụng hết, cây cối trở nên trơ trụi, bởi vì vừa mới đêm qua thôi ở trước sân đã có một cành hoa mai nở rồi. Cành hoa mai ở đây tiêu biểu cái bất sinh bất diệt của vũ trụ thiên nhiên mà nếu con người cố gắng tu luyện thì sẽ có thể vượt ra khỏi sự tuần hoàn của thiên nhiên để hội nhập vào cái trường tồn của vũ trụ.

Chúng ta đừng nên có thái độ như con người mà thi nhân Trung-quốc Trần Tử-ngang 陳子昂 (659-700) diễn tả trong bài thơ Đăng U-châu Đài Ca 登幽州臺 歌:

前不見古人,
                        後不見來者.
念天地之悠悠,
獨愴然而涕下.

Tiền bất kiến cổ nhân,
Hậu bất kiến lai giả.
Niệm thiên địa chi du du,
Độc thương nhiên nhi thế hạ.

Trần-trọng-San đã dịch bài thơ này sang thơ Việt ngữ, theo thể song thất lục bát, nhan đề Bài Ca Lên Đài U-châu.

Ngoảnh lại trước: người xưa vắng vẻ;
Trông về sau: quạnh quẽ người sau.
Ngẫm hay trời đất dài lâu,
Mình ta rơi hạt lệ sầu chứa chan.

Nói cách khác, con người phải biết gạt bỏ sự phân biệt ngoại giới với nội giới, cái ta và vũ trụ, phải biết cảm thông với vũ trụ thiên nhiên, nghĩa là đem cái đoản sinh của mình hòa với cái trường tồn của vũ trụ thiên nhiên, đem cái cục hạn của mình nhập vào cái bao la bát ngát, vô hạn vô biên của vũ trụ thiên nhiên. Được như vậy thì đâu còn sống chết, quá khứ, vị lai nữa mà phải đau buồn cho những gì đã qua đi, mất đi, cũng như phải lo âu cho sự gì sẽ tới, lo cho cái già đổ trên đầu mình, lo cho xuân tàn hoa rụng, bởi vì trong cái tiêu điều của xuân tàn hoa rụng đó đã có một cành mai hé nở làm vui lòng người rồi. Vì thế chúng ta chỉ nên quan tâm đến cái hiện diện của vũ trụ vĩnh cửu, thường hằng, vô thủy vô chung thôi. Được như vậy thì chúng ta sẽ thấy mọi sự ở trên thế gian này chỉ là huyễn ảo, mộng ảo, không đáng cho chúng ta phải quyến luyến nữa.

III.- Lời Kệ của Thiền Sư Giác-hải

Quan niệm cuộc đời là huyễn ảo một lần nữa lại được đề cập tới trong bài kệ của thiền sư Giác-hải (sống khoảng cuối thế kỷ thứ 11, đầu thế kỷ thứ 12).

春來花蝶善知時,
花蝶應須共應期.
花蝶本來皆是幻,
莫須花蝶向心持.

Xuân lai hoa điệp thiện tri thì,
Hoa điệp ứng tu cộng ứng kỳ.
Hoa điệp bản lai giai thị huyễn,
Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì.

Ngô Tất Tố đã dịch sang thơ Việt ngữ như sau:

                        Xuân sang hoa bướm khéo quen thì,
                        Bướm lượn hoa cười vẫn đúng kỳ.
                        Nên biết bướm hoa đều huyền ảo,
                        Thây hoa mặc bướm, để lòng chi.

Người dịch thứ hai là Lê-mạnh-Thát:

                        Xuân đến bướm hoa khéo biết thì,
                        Cần nhau hoa bướm biết nhau khi.
                        Bướm hoa vốn thảy đều hư huyễn,
                        Chớ đem hoa bướm giữ lòng chi.

Sự sống chết của con người đối với vũ trụ không khác gì hoa và bướm đối với mùa xuân. Hoa cũng như bướm vốn quen biết thời gian nên khi mùa xuân tới hoa sẽ nở và bướm sẽ lượn bay đúng kỳ hạn. Tuy nhiên, cái mà chúng ta gọi là hoa, là bướm lại chỉ là huyễn ảo mà thôi, chứ không là thực, cho nên chúng ta không nên bận tâm đến chúng làm chi. Sự sống chết của con người cũng vậy. Còn nghiệp duyên thì con người còn sống; nếu hết, con người sẽ chết. Sự sống chết của con người vì thế cũng chỉ là cảnh huyễn ảo, đâu phải là thực tướng của vũ trụ! Vì vậy chúng ta cũng chẳng nên quá lo lắng, bận tâm về cái sống hay cái chết của mình nữa.

Nói tóm lại, ba bài kệ của các thiền sư Chân-không, Mãn-giác và Giác-hải mượn cảnh xuân để hướng dẫn mọi người tìm được con đường tự giải thoát những đau khổ của mình do sự lầm tưởng cảnh và thực cũng như sự tách biệt mình và vũ trụ gây ra. Con đường tự giải thoát đó là phải coi mọi sự vật chung quanh mình và chính thân xác mình là huyễn ảo, để khỏi quá bận tâm đến sự sống chết, đến thân xác hủy hoại của mình, đến trạng thái phù du của cuộc đời tạm bợ và ngắn ngủi của con người, mà cho rằng đời người cô đơn, cô lập, bé nhỏ để rồi sinh ra bi quan yếm thế; trái lại phải biết tham dự vào cuộc tuần hoàn của vũ trụ, biết hội nhập vào sự vĩnh cửu của trình tự thiên nhiên.

T.Q.T
__________

Chú Thích:
(1) Nguyễn-đăng-Thục, Thiền Học Việt-nam, Lá Bối, Sài-gòn, 1967, Xuân Thu, 
Los Alamitos, California, in lại (không ghi năm in lại), tr. 325.

Feb 17, 2015

Nhớ tết xưa một thời

Nhớ tết xưa một thời bao cấp.
            
Không khí chuẩn bị Tết thời xưa đã để lại những ấn tượng khó quên với bất kỳ đứa trẻ nào trải qua giai đoạn chiến tranh, đổi mới của đất nước. Có thể nói những ngày chuẩn bị mua sắm cho ngày Tết mới đúng là Tết.
Đó là một thời kỳ mà nhiều người cho rằng lúc đó, dịp Tết thực sự mang ý nghĩa trọn vẹn của nó với những hình ảnh, mùi vị khó quên để khi nghĩ tới, ai từng được sống qua giai đoạn ấy cũng đều cảm thấy nao lòng.Từ chuyện đi xếp hàng mua gói hàng Tết gồm một hộp mứt mà cả năm mới nhìn thấy, hai ba bao thuốc lá Tam Đảo, Điện Biên hay Thủ Đô, một bánh pháo, ít thịt lợn, vài lạng đậu xanh để gói bánh chưng. Tết xưa đơn sơ là thế nhưng thân thương, ấm cúng vô cùng.
TET BAO CAP 1.1
Khung cảnh xếp hàng mậu dịch ở Hà Nội những năm 1960 – 1970 khi mua bán túi đồ Tết.
TET BAO CAP 1.14
Mứt Tết và bánh chưng là 2 thứ không thể thiếu trong Tết cổ truyền của người Việt.
nam moi 1.5
Tết không thể thiếu khoanh giò hoặc thịt lợn
nam moi 1.6
Rượu, bia hay đồ dùng mới cần phải thay cũng được chú ý mua cho ngày Tết.
nam moi 1.7
Vào dịp Tết, người dân không thể quên mua chất đốt như than củi, than tổ ong, dầu hỏa, đá lửa…
năm moi 1
Xếp hàng mua thực phẩm cạnh Nhà hát Lớn Hà Nội.
nam moi 1.3
Mua tranh, lịch treo tường.
TET BAO CAP 1.4
Bảng thông báo bán hàng trong dịp tết Nhâm Tuất năm 1982.
TET BAO CAP 1.2
Một ngôi nhà Hà Nội những năm 70, 80.
nam moi 1.4
Chợ hoa phố Hàng Lược tấp nập người mua, kẻ bán.
TET BAO CAP 1.9
Không thể thiếu một cành đào vào dịp Tết.
TET BAO CAP 1.7
Hai vợ chồng đang giã và gói giò chuẩn bị đón Tết.
TET 3
Những gói mứt Tết được bày bán ở tiệm tạp hóa năm xưa.
TET BAO CAP 1.5
Những tràng pháo không thể thiếu được trong những ngày Tết.
TET BAO CAP 1.10
Cửa hàng bán pháo ngày Tết.
TET 11
Tiếng pháo nổ đì đùng sẽ còn in dấu trong tâm trí bao người đã từng đi qua thời gian.
TET BAO CAP 1.19
Trẻ em háo hức chờ đón Tết.
TET BAO CAP 1.21
Người dân hồ hởi đón Tết.
TET BAO CAP 1.16
TET BAO CAP 1.17
Những ngày giáp Tết, tàu xe đi lại rất khó khăn.
TET BAO CAP 1.24
Sau bao ngày vất vả, cả gia đình cùng nhau đoàn viên bên mâm cỗ tất niên chiều 30 Tết.
TET BAO CAP 1.23
Sáng mùng 1, trẻ em sẽ được người lớn mừng tuổi để thêm phần may mắn trong năm mới.
TET BAO CAP 1.6
Pháo đốt đỏ trước hiên nhà.
TET BAO CAP 1.13
Đường phố Hà Nội những ngày Tết.

Nguyễn Bá Thanh và Cái Chết Tức Tưởi

Ông Nguyễn Bá Thanh và Cái Chết Tức Tưởi

 February 17, 2015                
nguyen-ba-thanh
Ngày Mười Ba Thứ Sáu, ông Nguyễn Bá Thanh nhắm mắt từ trần, rời bỏ giấc mộng Thị Trưởng Đà nẵng một thuở, và giấc mộng kinh bang tế thế trên đất Hà Nội cũng tan theo mây khói. Cái chết của ông, sự ra đi của ông để lại sự thương tiếc không ít trong lòng nhiều người dân Đà Nẵng, Quảng Nam và cả nước. Đương nhiên có không ít người oán hận ông. Nhưng hầu như họ ít lên tiếng và có vẻ như họ không nói gì về ông nữa kể từ khi ông lâm bệnh nặng. Cái chết của ông đã hóa giải nhiều mối cừu thù với ông mà trong đó, nguyên nhân có một phần không nhỏ do ông gây ra.
Có thể nói, một cái chết đắt địa nhất trong vấn đề khai sáng cho người Việt vào thời điểm này. Ông đã chết không uổng phí cho dù có bị đầu độc hay bị gì đi nữa. Cái chết đầy ẩn số của ông đã giúp cho người nông dân, kẻ có học, anh phu xe và nhiều thành phần vốn dĩ ngủ quên trong đau khổ, cam chịu, toan tính cơm áo gạo tiền bỗng giật mình đặt câu hỏi: Vì sao ông chết? Có phải là ông bị đầu độc? Nếu còn sống, ông sẽ thăng tiến đến đâu? Chúng ta đang sống trong chế độ nào?
Thứ Sáu ngày 13 – giấc mộng Thị trưởng tan theo mây khói
Lúc còn làm Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng, nhiều lần ông Thanh bày tỏ nguyện vọng thay đổi chức danh Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố thành chức Thị Trưởng nhưng cấp trên không chấp nhận. Và lúc ông Thanh đương chức ở Đà Nẵng, hai con đường Trường Sa, Hoàng Sa được ông cho người Trung Quốc thuê để xây dựng các biệt thự, khu nghỉ mát, sòng bạc hàng loạt. Khách Trung Quốc sang thăm, ông cũng dắt họ về khách sạn trên đường Hoàng Sa, Trường Sa để nghỉ lại… Ông cũng từng tuyên bố đã cải trang hàng trăm tàu quân sự thành tàu đánh cá ra biển Đông xua Trung Quốc chạy mất dép. Nhiều trí thức Đà Nẵng cho rằng đó là hành động yêu nước của ông (?!).
Có lẽ bây giờ, câu hỏi ông có bị đầu độc hay không và ai đã đầu độc ông vẫn chưa cũ. Bởi nó là nguyên nhân, đầu mối của mọi vấn đề, bởi nó đã đóng chặt một giấc mơ chính trị, một số phận cũng như khép lại hàng loạt cừu thù đáng tiếc của một đảng viên Cộng sản thuộc hàng cao cấp ở Đà Nẵng và cũng là người có nhiều công trình còn dở dang… Cũng như nó lại giải mã cho câu trăn trối (qua miệng giáo sư Phạm Gia Khải) rằng “gia đình tôi sẽ tự lo mọi chi phí bệnh viện”.
Tại sao một người nằm viện suốt hơn nửa năm trời, một người luôn chịu đựng mọi cơn đau, cố gắng vượt qua cái chết để tiếp tục thực hiện công nghiệp còn dang dở của mình lại chỉ trăn trối một vấn đề hết sức nhỏ, không đáng quan tâm như vậy? Mặc dù khi truyền đạt lại câu nói này, giáo sư Phạm Gia Khải nói với lòng ngưỡng mộ và yêu quí ông Thanh nhưng dường như trong sự ngưỡng mộ, yêu quí ấy có chút gì đó không bình thường!
Nó không bình thường bởi điều mà ông truyền đạt không nhất thiết, không đáng phải công khai trên báo giới, thông tin của nó không có sức nặng cần thiết cho lúc này. Nhưng tại sao ông Phạm Gia Khải lại đưa ra thông tin này?
Có một ẩn số và hai khả năng: Ẩn số về viện phí, nói là nhà nước lo một phần, trung ương đảng lo một phần và gia đình lo một phần viện phí nhưng không nói cái “một phần “ ấy thuộc gói nào, là gói ở bệnh viện đa khoa Đà Nẵng hay là gồm cả gói chữa bệnh ở Mỹ, Singapore. Thông tin về vấn đề này chưa được tường minh. Và hai khả năng là: Lời công bố vô tình của một người có nếp nghĩ không thấu đáo, chỉ trả lời để mà trả lời (khả năng này khó xuất hiện ở giáo sư Khải). Khả năng thứ hai nhằm đấu tố, một bước nối của Chân Dung Quyền Lực.
Vì đến thời điểm hiện tại, chức năng và sứ mệnh đấu tố của Chân Dung Quyền Lực đã hết, nó có tồn tại hay không tồn tại cũng không thể đưa ra ác chủ bài cần thiết mà người ta đặt định. Nhưng cuộc đấu tố quyền lực thì chưa bao giờ chấm dứt. Người ta vẫn chưa buông tha cho ông Nguyễn Bá Thanh. Nên nhớ Chân Dung Quyền Lực là một trang blog phanh phui tham nhũng. Câu nói của giáo sư Phạm Gia Khải là câu nói của một người mến mộ ông Thanh, xét về nội dung, hình thức thì khác nhau, thậm chí khác nhau về bản chất. Nhưng mục tiêu của nó thì phải xem lại!
Bởi lẽ, với mức chi phí mỗi ngày điều trị lên đến hàng chục ngàn đô la, thậm chí có ngày lên đến vài chục ngàn đô la tại bệnh viện Mỹ và bệnh viện Singapore, sau đó về Đà Nẵng, chi phí bệnh viện cũng lên đến hàng chục triệu đồng mỗi ngày. Nếu cộng tổng số tiền điều trị bệnh cho ông Thanh, có thể là vài chục tỉ đồng, thậm chí hàng trăm tỉ đồng gồm chi phí điều trị bệnh, người chăm sóc ăn ở và đi theo qua Singapore, qua Mỹ, rồi chi phí máy bay chuyên dụng để đưa ông về… Chắc chắc con số có thể lên đến hàng trăm tỉ đồng.
Nếu là một cán bộ thanh liêm, thì cả một đời làm việc, ăn lương của ông Nguyễn Bá Thanh không bao giờ chi trả đủ 30% số tiền viện phí. Trong khi đó, nhà cửa của ông Thanh vẫn chưa phải thế chấp hay bán đi để chữa bệnh, xe cộ của ông và con ông vẫn còn nguyên mà lúc sắp ra đi ông lại mạnh miệng tuyên bố gia đình sẽ lo toàn bộ viện phí. Như vậy, bản thân câu nói này đã tự đấu tố Nguyễn Bá Thanh là một quan tham cộm cán! Liệu có thật sự ông Thanh đã nói câu này? Hay là một trò đấu tố khác đang diễn ra?
Và tại sao với một cán bộ cao cấp như Nguyễn Bá Thanh, khi nằm viện lại không có bảo hiểm y tế? Lại phải nhờ đến tổ chức, nhà nước và gia đình? Rõ ràng, câu nói cuối cùng của Nguyễn Bá Thanh rất có vấn đề dù ông có thật sự nói hay là ông Phạm Gia Khải đã nhét vào miệng ông!
Ai đã đầu độc ông Thanh?
Và đến đây, dường như bệnh tật và cái chết của ông Thanh không bình thường nữa. Bởi nó được đưa tin một cách không bình thường; Điều trị một cách bí mật, không bình thường và khi chết, lời trăn trối cũng không bình thường. Một cái chết bất thường trong lòng một chế độ không bình thường. Vậy ai đã đầu độc ông Thanh?
Có hai luồng dư luận, đương nhiên là luồng dư luận do Chân Dung Quyền Lực đưa ra, nói rằng Nguyễn Xuân Phúc đầu độc Nguyễn Bá Thanh đã bị loại bỏ, nó hoàn toàn thiếu căn cứ, thậm chí hồ đồ. Bởi lẽ, Nguyễn Xuân Phúc từ đầu lấy yếu tố vùng miền để đấu đá và thăng tiến. Có thêm một nhân vật miền Trung chống lưng, dù sao cũng vững hơn phải đấu đá lẻ loi với hàng chục đối thủ nói giọng Nam giọng Bắc và luôn chờ thọc hông giữa đất Hà Nội.
Hiện tại, một luồng dư luận cho rằng phe Nguyễn Tấn Dũng đã đầu độc Nguyễn Bá Thanh, luồng khác lại cho rằng chính tay chân bộ hạ của Nguyễn Phú Trọng đã đầu độc Nguyễn Bá Thanh. Vậy đúng sai ra sao?
Ở luồng dư luận thứ nhất, có thể nói rằng nếu Chân Dung Quyền Lực là của phe Nguyễn Tấn Dũng thật sự thì Nguyễn Tấn Dũng khó có thể là kẻ đầu độc Nguyễn Bá Thanh. Vì lẽ, mục tiêu cuối cùng để Chân Dung Quyền Lực đánh là Nguyễn Bá Thanh, đánh một quan chống tham nhũng đang truy kích đàn em của mình, lật tẩy ông ta trước thiên hạ là xem như đắc lợi, chẳng cần nói thêm chuyện gì cho nhiều. Nhưng nếu biết trước Nguyễn Bá Thanh sẽ chết và sẽ không còn cơ hội điều tra đến tài sản gia đình mình, Nguyễn Tấn Dũng chẳng thừa hơi để lập trang Chân Dung Quyền Lực để phanh phui, đấu tố mà kết quả của nó là 50/50. Thành công cũng đó mà nguy hiểm, thân bại danh liệt cũng chính nó nếu như phe đối phương thiết lập một blog khác theo kiểu Gương Mặt Quyền Thế để đấu tố lại chẳng hạn!
Nhưng ở khía cạnh khác, thâm độc hơn, hiểm hóc hơn (mà Nguyễn Tấn Dũng từng làm là mượn tay Nguyễn Phú Trọng để loại Nguyễn Bá Thanh ra khỏi Bộ Chính Trị trong Hội nghị trung ương 7 – 2012), ông Dũng lại một lần nữa mượn tay Nguyễn Phú Trọng để đầu độc Nguyễn Bá Thanh. Vì làm như thế ông được lợi cả hai mặt, vừa không trực tiếp vấy máu lại vừa tung ra cú đòn Chân Dung Quyền Lực để giằng mặt đối thủ và củng cố uy lực. Vậy nếu là phe Nguyễn Phú Trọng đầu độc Nguyễn Bá Thanh thì vì sao lại đầu độc và đầu độc Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Phú Trọng được gì?
Có lẽ phải nhắc lại mối quan Hệ Việt – Trung cũng như thế chân vạt Mỹ – Trung – Việt giữa ba con người gồm Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn tấn Dũng và Nguyễn Bá Thanh. Xét trên góc độ thân Trung Cộng, tương quan của ba nhân vật này ngang nhau. Nếu nhìn bên ngoài, Nguyễn Phú Trọng thân Trung Quốc hơn Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Tấn Dũng có công cho Trung Quốc thuê rừng, đất Tây Nguyên, thuê cảng Vũng Áng lâu dài… so với Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Tấn Dũng là bậc thầy thân Trung, hơn nữa, Trọng và Dũng chức quyền cũng hơn Thanh.
Nhưng trên thực tế thì hoàn toàn khác. Phải nhớ là sau khi Nguyễn Bá Thanh tuyên bố từng cho cả hàng trăm tàu đánh cá do quân đội cải trang ra xua tàu Trung Quốc chạy tán loạn thì sau đó không bao lâu, hàng loạt vụ gây hấn trên biển Đông, rơi vào tọa độ Đà Nẵng đã diễn ra rất nặng nề. Và ở trên đất Đà Nẵng, người Trung Quốc được biệt đãi, họ không xây dựng những khu công nghiệp như Vũng Áng, Hà Tĩnh nhưng họ lại xây biệt thự, xây nhà vip, khu nghỉ mát và sòng bài. Tất cả bờ biển Đà Nẳng hầu như dành cho người Trung Quốc ở và sinh hoạt. Nơi họ ở là một biệt khu, ngoại trừ Nguyễn Bá Thanh, ít có quan chức nào được bước vào bên trong.
Và cái mộng biến Đà Nẵng thành một đặc khu kinh tế không dừng ở đó, ông Thanh cũng không mộng ở cái chức Thị Trưởng. Bởi một khi Đà Nẵng thành đặc khu kinh tế với Thị trưởng Nguyễn Bá Thanh hoặc một Thị Trưởng đàn em của ông, mối quan hệ chính trị dây mơ rễ má với các quan chức cấp cao Trung Quốc mà Nguyễn Bá Thanh đã ngầm thiết lập sẽ giúp ông được rất nhiều. Hơn nữa, với tài năng, cá tính cũng như uy tín được xây dựng từ trước, tiếng nói Nguyễn Bá Thanh tại miền Trung có thể làm ảnh hưởng đến cục diện chính trị cả nước, có thể làm đảo lộn mọi thứ vốn ổn định của Bộ Chính Trị.
Chính vì nhìn ra được điều này mà Nguyễn Phú Trong mặc dù rất tin tưởng vào tài năng Nguyễn Bá Thanh nhưng lại là người loại Nguyễn Bá Thanh ra khỏi Bộ Chính Trị trong Hội nghị trung ương 7. Và trước Hội nghị trung ương 10, Nguyễn Phú Trọng đã sử dụng ác chủ bài, đã cử Nguyễn Bá Thanh sang Trung Quốc công tác. Thực ra là ông thừa biết cử Nguyễn Bá Thanh sang Tàu, cũng đồng nghĩa với chuyện thả cọp về rừng.
Ông ta cũng thừa biết trong con mắt lãnh đạo cấp cao Trung Cộng, chỉ có Nguyễn Bá Thanh mới xứng tầm thái thú cho họ trong bối cảnh hiện tại. Tiếng nói của Nguyễn Phú Trọng, nếu bỏ cái chức Tổng Bí Thư ra, ông ta chỉ là miếng giấy lộn. Trong khi đó, nếu dán cái chức Tổng Bí Thư lên Nguyễn Bá Thanh, có thể làm đảo lộn thời cuộc bởi tiếng nói, sự chi phối của ông đối với nhân dân còn cao hơn rất nhiều so với Nguyễn Tấn Dũng. Trong khi đó, chuyến đi Trung Quốc của Thanh là chuyến đi ủy nhiệm nhằm tìm một sự chỉ đạo, sắp xếp nào đó có lợi cho phe Trọng và có hại cho phe Dũng từ các quan thầy Trung Cộng.
Và chuyến đi có thể nói là rất thành công, Nguyễn Bá Thanh tìm được tiếng nói chung với các quan thầy Trung Cộng. Bởi các lãnh đạo cấp cao Trung Cộng ngay từ đầu cũng nhận thấy miền Trung là yết hầu của Việt Nam về mặt quân sự, nếu thao túng miền Trung thì xem như lấy được Việt Nam, vấn đề là lấy làm sao thật êm mà người ta phải cám ơn sự xâm lược của mình. Nguyễn Bá Thanh nghiễm nhiên trở thành ứng cử viên nặng ký trong chức năng thái thú Trung Cộng tương lai. Và đây là điều Nguyễn Phú Trọng hoài nghi, lo sợ ngay từ đầu. Nó đã thành hiện thực.
Phe Nguyễn Tấn Dũng nhìn thấy sự việc nên đã bài binh bố trận từ Chân Dung Quyền Lực cho đến nhiều việc khác, kể cả phát biểu của Phạm Gia Khải sau này. Và đòn đầu tiên mà Dũng đánh vào Nguyễn Phú Trọng chính là phát biểu có tính chống Trung Cộng của ông. Điều này làm vỡ trận, quan thầy Trung Cộng bẽ bàng nhận ra Nguyễn Phú Trọng không có khả năng quán xuyến Bộ Chính Trị Cộng sản Việt Nam, ông đã không điều khiển được đảng viên đàn em để tạo mối quan hệ thuận lợi cho công cuộc Hậu Thành Đô.
Và Nguyễn Phú Trọng cũng ngỡ ngàng nhận ra mình đã nuôi ong tay áo bấy lâu nay, nuôi một người từng chơi thế chân vạc, vừa đi với Trung Cộng lại vừa mở cửa, mời tàu hải quân Mỹ vào Đà Nẵng và có thể trở thành một lãnh chúa vùng miền, một lãnh đạo quốc gia nếu Trung Quốc chịu chống lưng và cất nhắc. Bây giờ, thay vì phải đánh nhau với Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng lại phải đánh nhau với Nguyễn Bá Thanh. Chuyến đi Trung Quốc của Nguyễn Bá Thanh là một thất bại, mất điểm của Nguyễn Phú Trọng.
Và chuyện gì đến cũng đã đến, Trọng Lú quyết bước ra khỏi vùng lú, phải diệt cho được con ong trong tay áo, diệt ứng cử viên miền Trung – kẻ đã từng nhiều lần biến Đà Nẵng thành đặc khu nhưng chưa được. Bây giờ Trọng mới thấy tham vọng của Thanh, Trọng không còn lú nữa, phải cho Thanh chết! Và khi Thanh chết đi, uy tín của Trọng với đám quan thầy Trung Cộng sẽ lấy lại được. Bởi với họ, nội bộ Cộng sản Việt Nam cứ thoải mái đấu đá, giết nhau, càng giết, càng đấu đá thì càng phải dựa vào đàn anh, họ càng dễ xoa đầu và chỉ định, chỉ đạo.
Nhưng Nguyễn Phú Trọng quên mất một điều, Nguyễn tấn Dũng có một cái chân vạc còn ghê gớm hơn và hình như là mọi sự nóng giận hay thủ đoạn của Trọng đều không qua mặt được Dũng. Cuối cùng, Dũng đã nhổ được cái gai trong mắt mà không tốn viên đạn nào. Trọng càng lúc càng lụn bại.
Đương nhiên đây chỉ là những luồng dư luận được đặt thành giả thiết. Và vấn đề buồn nhất vẫn là cái chết thảm thương và tức tưởi của ông Thanh, đất nước mất một lãnh đạo có tâm. Nhưng cái chết của ông cũng rất đúng lúc, nó làm rõ hơn một thứ chân dung quyền lực khác – những chân dung quyền lực chân vạc, vừa dựa Mỹ nhưng lại trông đợi vào sự cất nhắc của quan thầy Trung Cộng để tiến thân.
Và hình như Nguyễn Bá Thanh đã cay đắng và hốt hoảng nhận ra mình đã nhầm đường cho đến phút lâm trọng bệnh, ông đã chọn đất Mỹ để chữa bệnh. Điều này, nếu bàn luận ra thêm, có khi phải ứa nước mắt cho thân phận chính trị Việt Nam bởi phần lớn nhân dân mãi là đám đông kêu gào, khóc lóc, đại bộ phận quan chức thăng tiến chỉ biết dựa vào sự chống lưng của Trung Cộng.
VietTuSaigon