Aug 19, 2015

Người Việt ở Campuchia sống lay lắt giữa Biển Hồ

Người Việt ở Campuchia sống lay lắt giữa Biển Hồ


Người dân sử dụng nước ở Biển Hồ bị ô nhiễm để tắm giặt, ăn uống. Ảnh: LT
Người dân sử dụng nước ở Biển Hồ bị ô nhiễm để tắm giặt, ăn uống. Ảnh: LT

Họ không có giấy tùy thân, không được chăm sóc sức khỏe, hầu hết mù chữ, con trẻ không được đến trường. Nước, chất thải hằng ngày xả thẳng xuống hồ rồi lại sử dụng phục vụ sinh hoạt, ăn uống. Có lẽ họ là những Việt kiều nghèo khó nhất.
Cuộc sống của hàng nghìn người gốc Việt giữa lòng Biển Hồ (Campuchia) càng khốn khó hơn bởi tình trạng cạn kiệt, ô nhiễm do khai thác nguồn nước, du lịch quá mức cũng như lệnh cấm đánh bắt cá của chính quyền sở tại.
Khốn khó mưu sinh
Tháng ba. Biển Hồ kiệt nước, đục ngầu. Tàu thuyền chở khách du lịch qua lại nườm nượp, làm dậy lên mùi hăng hắc khó chịu của bùn non và rác thải đang phân hủy bị sóng lớn đánh tấp vào bờ.
Bất chấp ánh nắng như thiêu cháy da thịt, hàng chục đứa trẻ khoảng 9 – 12 tuổi đen nhẻm, rách rưới vẫn lầm lũi mò cua, bắt sò, ốc dọc theo triền sông.
Đứa nào cũng gày gò, mụn ghẻ khắp người, tóc tai khét nắng. Dinh, hướng dẫn viên người Campuchia nói: Tụi nhỏ là con của những gia đình gốc Việt sống bằng nghề chài lưới, đánh bắt cá trên Biển Hồ, không được đi học nên một chữ cắn đôi không biết. Việt kiều ở đâu giàu không biết chứ ở đây, bà con rất nghèo. Thương lắm.
Lặn ngụp suốt hai tiếng đồng hồ, nhiều đứa chỉ mò được mớ ốc nhỏ xíu. Bé Sang (11 tuổi) bảo: “Nước dơ quá, cua ốc ngày càng ít. Hôm nào trúng mánh cũng chỉ được hơn một ký, đem lên bờ bán được 2.000 ria (tiền Campuchia) phụ ba má đong gạo”.
Ánh mắt trong veo của học sinh nghèo được chăm lo, nuôi dậy miễn phí giữa Biển Hồ
Gần đó, ông Long (38 tuổi), bố của Sang đang quăng chài bắt tôm cá. Hằng ngày, ông bơi xuồng hàng chục cây số, tìm những vùng nước nông để chài lưới, kiếm ăn qua ngày. Có lẽ do ngâm nước lâu ngày nên cũng như con trai, khắp người và các ngón tay, ngón chân ông Long đều bị nước ăn, lở loét.Ông Long bảo: Mấy cái mụn ghẻ chỉ làm mình ngứa ngáy chứ không chết được đâu. Nói thiệt, bà con không sợ bệnh tật mà lo chết vì không kiếm được cái ăn hằng ngày. Tôm cá ít, giờ lại thêm cái lệnh cấm đánh bắt cá trên Biển Hồ. Tui phải làm lén lút. Bị cảnh sát bắt thì có bán nhà cũng không đủ tiền nộp phạt.
Ngư dân gốc Việt này kể rằng, trong xóm có gần 40 người bị bắt, đang có nguy cơ bị xử án tù vì không có tiền đóng phạt hoặc tái phạm nhiều lần. Mà không tái phạm không được. Bà con đánh bắt cá mưu sinh bao đời nay, có biết nghề nào khác đâu.
Mấy hôm trước ông và mấy người bạn trong xóm lên bờ đi xin việc, sẵn sàng làm bốc vác hay bất cứ việc gì cũng được, miễn là kiếm tiền chân chính nhưng không có ai dám nhận vì bọn tui không có giấy tờ. Nhiều người không còn đường mưu sinh đành dẹp bỏ tự trọng, chèo kéo, xin tiền các du khách.
Không quốc tịch, thua thiệt đủ kiểu
Xóm của ông Long có gần 500 nóc nhà lụp xụp lợp bằng tôn rách, lá dừa, thuộc địa phận tỉnh Xiêm Riệp, cách bến tàu hơn 30 phút đi ghe máy. Gọi là nhà cho oai, có căn chỉ là chiếc thuyền cũ rách nát neo chơi vơi giữa hồ.
Ngư dân đóng bè neo chặt trên mặt nước rồi dựng chòi thấp lè tè, che chắn tạm bợ đề phòng giông lốc. Nhiều người cho biết có hôm gió lớn, cả nhà phải nhảy xuống nước níu giữ để chiếc bè không bị cuốn trôi.
Không có việc làm, nhiều người sống nhờ lòng hảo tâm của du khách
Theo Hội Việt kiều Campuchia, trên Biển Hồ hiện có trên 1.500 hộ dân gốc Việt đang sinh sống. Hầu hết bà con có nguyên quán thuộc các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long như Đồng Tháp, Vĩnh Long, An Giang, Kiên Giang… Đời ông, cha theo sông Cửu Long ngược lên Biển Hồ đánh cá mưu sinh rồi sinh con, đẻ cái sống lay lắt đến nay.
Ông Minh năm nay 57 tuổi, quê gốc ở Sa Đéc (Đồng Tháp). Ông kể rằng ngày xưa, thời Pháp thuộc loạn lạc, ông nội ông đưa cả gia đình sang đây. Ba má ông gặp nhau, kết hôn bên này.
Năm 1964, cả nhà hồi hương nhưng chỉ ở Việt Nam được ba năm thì quay lại Biển Hồ vì chiến tranh, bom đạn ác liệt quá. Di chuyển nhiều nơi, đời thương hồ ngang dọc trên sông nước nên từ đời ba má ông, không ai có giấy tờ tùy thân lận lưng. Muốn lên bờ, đổi nghề cũng không được.
“Người dân ở đây đều là người gốc Việt, có quê cha, đất tổ đàng hoàng nhưng không ai có quốc tịch, kể cả quốc tịch Campuchia nên thua thiệt đủ điều. Trẻ không có giấy khai sinh, muốn lên bờ đi học cũng không được. Người lớn không có giấy tùy thân, làm ăn buôn bán, tìm việc làm khó như bắc thang lên trời” – ông Minh nói.
Bóng tối sụp xuống rất nhanh. Mới hơn 19 giờ mà xóm vạn đò giữa Biển Hồ như đã khuya lắm rồi. Không gian mênh mông chỉ còn sót lại chút ánh sáng hắt ra từ biển hiệu của các nhà hàng nổi xa xa, loang loáng trên mặt hồ. Nhiều nhà đã tắt đèn để tiết kiệm dầu. Không có điện lưới quốc gia, người dân chả mấy ai dám mua máy phát điện để dùng vì giá xăng dầu ở Campuchia đắt đỏ.
Ông Long bảo: Ngủ sớm, không có phương tiện giải trí nên cuộc sống của bà con càng khó khăn, túng thiếu hơn bởi… nhà nào cũng sinh nhiều con. Vợ chồng ông đẻ 5 đứa. Đứa lớn nhất 16 tuổi, đứa nhỏ mới 18 tháng. Đứa nhỏ nhất còn trong bụng. Đứa con gái lớn đã có người dạm hỏi. Dự kiến năm sau sẽ tổ chức lễ cưới.
Căn nhà của gia đình ông Minh chưa đến 35 mét vuông nhưng là nơi sinh sống của ba gia đình, 16 người nằm xếp như cá mòi. Ăn ngủ, sinh hoạt vợ chồng chật chội, bất tiện nhưng không ở đây thì đi đâu? Đẻ nhiều nhưng trẻ không có trường để học. Cha mù chữ xong lại đến con.
Chất thải của hàng trăm con người hàng ngày xả thẳng xuống Biển Hồ. Bà con sử dụng nguồn nước ấy để ăn uống, sinh hoạt. Nguy cơ phát sinh dịch bệnh rất cao. Hễ có người đau ốm là phải chuyển vào bờ vì nơi này không có trạm y tế. “Đã có người chết trên đường vì không được cấp cứu kịp thời”, ông Minh kể.
Lớp học tình thương
Chiều muộn, cùng với nhiều du khách, chúng tôi ghé vào trường tiểu học Việt Nam giữa Biển Hồ. Thầy hiệu trưởng Trần Văn Tư bệnh nặng, phải về Việt Nam chữa trị. Hơn 30 năm trước, ông Trần Văn Tư (sinh năm 1937, quê Tây Ninh) sáng lập ra lớp học tình thương giữa Biển Hồ.
Ông Tư xin bộ đội Việt Nam một chiếc bè cũ về sửa chữa lại làm lớp học. Giáo viên lúc ấy là hai chị em ruột đang học dở dang đại học và PTTH ở Sài Gòn nghe kẻ xấu xúi giục vượt biên, bị lừa hết tiền, vàng, được ông Tư chuộc ra khi cả hai sắp bị bán vào nhà chứa ở Xiêm Riệp.
Năm 1989, ông Tư cùng hai cô giáo hồi hương sau khi bộ đội tình nguyện Việt Nam làm xong nghĩa vụ quốc tế và rút về nước. Năm 1993, được sự giúp đỡ của sứ quán Việt Nam và các nhà hảo tâm, ông Tư tái lập trường học Việt Nam nuôi dạy miễn phí trẻ em nghèo trên Biển Hồ. Trường được cán bộ chiến sĩ Quân khu 7 tặng hai nhà bè trị giá hơn 1 tỷ đồng.
Ông Tư ngăn ra thành 5 phòng học. Từ 31 học sinh ban đầu, hiện nay, trường đang nuôi miễn phí 314 cháu, dạy văn hóa từ lớp 1 đến lớp 5. Một số giáo viên từ Việt Nam tình nguyện sang dạy miễn phí.
Biên Hồ (Tonle Sap) thuộc lãnh thổ Campuchia là hồ nước ngọt lớn nhất Đông Nam Á, được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới vào năm 1997.
Tonlé Sap (Tiếng Campuchia) có nghĩa là “sông nước ngọt lớn”. Người Việt gọi Tonlé Sap là Biển Hô. Mùa khô (từ tháng 11 đến tháng 5), hồ khá hẹp và nông, độ sâu chỉ khoảng 1m với diện tích 10.000 km².
Mùa mưa bắt đầu từ tháng 6, thay vì Tonlé Sap rút nước từ hồ ra sông Mekong thì lại chảy ngược dòng, tiếp nước vào hồ khiến mực nước Biển Hồ dâng cao, diện tích hồ tăng lên tới 16.000 km², nhiều nơi sâu đến 9 m. Vùng ngập nươc biến thành nơi sinh sản lý tưởng của nhiều loài cá.
Tonlé Sap là một trong những hồ nước ngọt có hệ sinh thái đa dạng và phong phú, cung cấp 75% sản lượng cá nước ngọt cho người dân Campuchia. Tonlé Sap giữ vai trò như một hồ điều tiết, hạn chế nạn lũ lụt trên lưu vực sông Mê Kông. Vào mùa khô, khoảng 50% lượng nước sông ở châu thổ sông Cửu Long (Việt Nam) là nhờ hồ Tonlé Sap bù vào.
Huy Thịnh

ĐẠO CỦA NGƯỜI QUÂN TỬ ?

THẾ NÀO LÀ ĐẠO CỦA NGƯỜI QUÂN TỬ ?
Khổng Tử bàn về đạo của người quân tử như sau:

Đức của người quân tử

Khổng Tử nói: “Nhan Hồi có bốn đức mà người quân tử cần có: một là thực hành nhân nghĩa kiên định; hai là sẵn sàng vui vẻ tiếp nhận lời khuyên bảo của người khác; ba là thận trọng khi nhận lộc quan; bốn là khiêm tốn, cẩn trọng trong lời nói cũng như việc làm. Sử Thu cũng có ba đức như thế: một là tuy không có chức tước gì nhưng vẫn luôn giữ lòng trung với cấp trên; hai là tuy không thờ cúng nhưng vẫn luôn biết tôn kính quỷ thần; ba là đối với mình thì nghiêm khắc, với người thì khoan dung”.
Tăng Tham nói: “Tôi biết thầy có ba đức hay, nhưng tôi không làm được: một là thầy chỉ cần thấy người khác làm một việc tốt là có thể tha thứ cả trăm khuyết điểm trước đây; hai là thầy xem ưu điểm của người khác như của chính mình, không bao giờ đố kỵ; ba là thầy chỉ cần nghe được một câu nói hay là cố gắng đưa vào cuộc sống chăm chỉ luyện tập, không chút lơ là. Đây là những đức hay của thầy mà tôi không học được; vì thế tôi không thể bằng Nhan Hồi và Sử Thu”.

Tử Cống sẽ ngày càng sa sút

Khổng Tử nói: “Sau khi ta chết, Tử Hạ sẽ không ngừng tiến bộ, Tử Cống thì ngày càng sa sút”.
Tăng Tham hỏi: “Thưa thầy tại sao?”
Khổng Tử nói: “Tử Hạ thích chơi với kẻ mạnh hơn mình, Tử Cống lại thích chơi với kẻ thua kém mình. Ta nghe nói, muốn hiểu một người có thể quan sát bạn bè và thân phụ người đó; muốn hiểu một quân vương có thể quan sát sứ giả mà ông ta phái đi; muốn hiểu tính chất đất đai có thể quan sát cây cối sinh trưởng trên đất ấy. Vì thế mới nói: ‘chơi với người hay giống như đi vào căn phòng trồng hoa lan, lâu dần sẽ không cảm nhận được hương thơm của nó nữa, vì khi đó mình cũng hòa vào mùi hương hoa rồi; ở với người xấu cũng giống như đi đến chợ cá, lâu dần cũng không còn thấy mùi hôi tanh nữa vì cũng quen mất rồi’. Vì thế, người quân tử cần biết cẩn trọng chọn lựa người ở cùng với mình”.

Nếu nước vào thuyền

Khổng Tử nói: “Thuyền không có nước thì không đi được, nhưng nếu nước vào trong thuyền thì thuyền cũng bị chìm; vua không có dân thì không có gì để gọi là trị quốc, nhưng nếu dân trèo lên đầu vua thì quốc gia cũng không còn. Vì thế, vua ở trên cao không thể không cẩn trọng; thần dân ở dưới thấp không thể không có sự ràng buộc”.

Khổng Tử bàn về “đạo của quân tử”

Cao Đình nước Tề nói với Khổng Tử: “Tôi từ nước Tề xa xôi đến đây gặp Ngài vì muốn học đạo quân tử. Mong Ngài hãy chỉ cho tôi”.

Khổng Tử đáp: “Nội tâm phải chính trực, đây là cái gốc làm người. Bề ngoài, trong công việc phải cẩn trọng, giữ vững ý chí của mình; kiên trì thực hiện nhân nghĩa; thấy người có tài đức thì khiêm tốn học tập; gặp kẻ tiểu nhân bất tài thì tránh xa. Với người quân tử có tài năng không sinh lòng đố kỵ mà phải biết học tập. Làm được như thế thì người ở xa đến mấy cũng có thể thân như anh em. Nếu không muốn học theo đạo người quân tử thì người ở gần bên cạnh cũng khó thân nhau được”.

“Còn nữa, trong cuộc sống thường ngày, mỗi ngày chúng ta nói gì, làm gì, muốn làm sao không nói lời gây tai họa, làm những việc mình phải ân hận, thật không phải dễ dàng. Chỉ có người tài năng, có trí tuệ mới làm được. Vì thế phải luôn cẩn trọng, chú ý lời nói và việc làm của mình. Cần biết: cho dù một người cả đời trước đây chưa làm điều gì sai trái, nhưng cũng có thể chỉ vì một câu nói không hay nhất thời mà bao nhiêu công lao trước đây bị mất hết. Vì thế, muốn trở thành người quân tử phải luôn luôn cẩn trọng!”


Đại Kỷ Nguyên (tiếng Trung)

BIỂU TÌNH ĐÒI HUN SEN TỪ CHỨC

KAMPUCHEA: HÀNG CHỤC NGÀN NGƯỜI BIỂU TÌNH ĐÒI ÔNG HUN SEN TỪ CHỨC
Dân chúng Campuchia đã hết sợ hãi và họ cũng quá chán ngán chính quyền của ông Hun sen tham nhũng độc tài… Công nhân thì bị bóc lột sức lao động với đồng lương rẻ mạt. Đây cũng là tức nước vỡ bờ với một ông thủ tướng gia đình trị đã trị vị trên cái ngai vàng cả 30 chục năm.

Ở Việt Nam, đảng Cộng Sản đã cho mọi lực lượng công an, bộ đội dân phòng diễn tập gọi là "Chống khủng bố" và mới đây còn tập trận với đạn thật, họ còn trang bị cho ngành công an được có tàu chiến, máy bay. Và ông thủ tướng, mới đây, theo lệnh của đảng, là cho phép công an được lệnh bắn vào những ai chống đối người thi hành công vụ.

Những động thái của ông nhà nước Việt Nam là phòng ngừa dân chúng bất mãn và họ cũng lo sợ có những cuộc biểu tình đông người như xứ Campuchia.

Bây giờ dân chúng Việt Nam chưa có can đảm để biểu dương những cuộc bất mãn ông nhà nước. Nhưng, "con giun xéo mãi cũng phải oằn", chuyện gì xảy ra trong tương lai thì hãy chờ đấy!

Ngay như các quan chức cộng sản, họ cũng cho con cái đi du học Mỹ Quốc và họ cũng đã lo hậu sự để tình huống xấu nhất thì gia đình cũng đoàn tụ Mỹ quốc an huởng tiền bạc đã tích cóp được sau bao năm lăn lóc quan trường.”

***
Chứng tỏ “DÂN TRÍ” và NHẬN THỨC QUYỀN LÀM NGƯỜI” của người dân Campuchia ngày nay vượt hơn hẳn 87 triệu người dân Việt Nam trong nước, dưới sự lãnh đạo và điều hành của Cộng sản Hà Nội!

(Theo: voanews.com)

Số đông mà vẫn một mình...

 Số đông mà vẫn một mình
 Ai người chia sẻ tấm tình của ai!  :D

Mot Minh

Đi xa hỏi già, về nhà hỏi trẻ

Đi xa hỏi già, về nhà hỏi trẻ


Tuấn Khanh
.
 Cá nhân mình, hoàn toàn không thích cụm từ “nền GD thối nát” được thốt ra từ miệng cậu bé lớp 08, cấp THCS, khiến mình ngỡ ngàng, vì nó “quá lớn” so với lứa tuổi của em. Nhưng không thể phủ nhận GD nước Việt khiến những người lo cho vận mệnh dân tộc quá chán nản, thất vọng. Vì thế, bạn đọc cũng hãy đọc kỹ bài viết này, và hãy lắng nghe câu kết của nhạc sĩ Tuấn Khanh:
Lời trẻ thì có thể ngô nghê và không êm tai, nhưng lời trẻ trong ngôi nhà là sự thật, chúng ta cũng nên lặng nghe mà suy nghĩ như một người có học. Khi những người già chỉ còn biết nói dối, sợ hãi và xu nịnh, thì dân tộc Việt chỉ còn mong được nghe thêm lời của trẻ trong ngôi nhà của mình (Tuấn Khanh)
———-
 
Câu nói xưa của ông bà để lại, nghe mà đáng giá. Lời trẻ con thật thà, có thể nói lên được những điều mà người lớn đã quên hoặc né tránh.
Chuyện cậu bé lớp 8 ở Hà Nội bình luận về hiện trạng giáo dục Việt nam đang trở thành sự kiện gây tranh cãi ở nhiều nơi là một ví dụ. Giờ đây, bất luận các ý kiến phản đối hay ủng hộ cách thể hiện của cậu bé này, thì vấn đề xuống cấp của giáo dục Việt Nam được đặt ra rất rõ ràng, quả thật đang nhức nhối trong tim của hàng triệu phụ huynh.

Sự kiện này xảy ra vào ngày 12 tháng 8, trong buổi hội thảo ra mắt sách Văn và Tiếng Việt lớp 6 do nhóm Cánh Buồm, nhà giáo Phạm Toàn phụ trách và soạn thảo. Phần phát biểu của một học sinh lớp 8, tên là Vũ Thạch Tường Minh, trường Amsterdam, về sự ì ạch của nền giáo dục Việt Nam hiện nay, cũng như khát vọng đổi thay của em, được nói rõ bằng tuyên bố “nếu các vị Bộ trưởng không làm, thì khi nào con thành Bộ trưởng Bộ giáo dục, con sẽ làm”.
Trong băng ghi âm sống động, được phát đi nhiều nơi trên mạng xã hội, nhiều trang báo điện tử… người ta nghe thấy vỗ tay rầm rộ của giới phụ huynh, giới giáo viên… tham dự buổi ra mắt ấy. Trong tiếng vỗ tay ấy, rõ là có những góc tối ẩn ức được chạm tới, khiến cho nhiều người lớn phải bật ra tán thưởng. 
Tình trạng khủng hoảng của ngành giáo dục Việt Nam đã trở nên hết sức trầm trọng, thậm chí đến một học sinh trung học cũng cảm thấy bất đồng. Sự bất đồng không chỉ mới hôm nay mới có, mà đã hàng chục năm người ta chịu đựng, hàng chục năm ngơ ngẩn bàng hoàng nhưng vì ngán ngại và thỏa hiệp mà hầu hết các người lớn, phụ huynh chọn sự im lặng. 
Đường đến tương lai thật xa, ông bà Việt xưa chắc không hình dung trong ngôi nhà quê hương mình hôm nay, kẻ lớn đang loay hoay cày xới, cải cách trong vốn liếng sân vườn rách nát mình, và cứ tưởng đó là xây dựng bình nguyên của cả dân tộc. Đường xa chắc chẳng còn trông mong gì ở người già chỉ lối. Chỉ còn tiếng trẻ vang lên. May thay!
Tiếng vỗ tay và sự truyền đi nhanh chóng của cậu bé lớp 8 ấy, chỉ nối tiếp những phát biểu thẳng thắn đối với ngành giáo dục. Nhiều đoạn video tự quay, tải lên trên mạng internet, đã cho thấy không ít sinh viên, học sinh phản ứng vể các chương trình giáo dục, đường lối giảng dạy lịch sử, chính trị Mác-Lê… đã không còn hợp thời nữa. Hôm nay, tốc độ lan truyền của đoạn ghi âm ấy, không chỉ là chuyện trẻ con, mà chính ngay người lớn cũng đã quá mỏi mệt và giật mình khi được nhắc nhở rằng mình đang rơi lại phía sau, trên đường chạy vào tương lai bằng đôi chân sự thật.
Nhiều đời Bộ trưởng Giáo dục Việt Nam, không ít gia đình cứ hy vọng rồi thất vọng. Thất vọng chồng thất vọng cao như núi. Ngoài những bộ áo sang trọng hơn, những dự án khổng lồ tiền tỷ hoặc những kiểu học đòi mị dân, đánh bóng bản thân, thì các vị lãnh đạo ngành giáo dục đã chẳng đem lại được điều gì ngoài khủng hoảng. 
Đôi khi, chúng ta cũng nên tự hỏi đường chân trời đến Tân Thế Giới của các nhà lãnh đạo phiêu lưu giáo dục Việt Nam là đâu? Tại sao không bắt đầu và nối tiếp từ nền tảng sẳn có của miền Nam, mà vốn là quy chuẩn mơ ước của nhiều quốc gia châu Á khác từ thập niên 50-60? 
Cũng có ý kiến cho rằng đám đông người lớn nổi loạn đang mượn miệng trẻ con, nói những điều không thuộc thế giới trẻ thơ. Thật lạ, khi cần, người ta vẫn chứng minh các thiếu niên Lê Văn Tám, Kim Đồng, Kơ-pa Kơ-Lơng, Võ Thị Sáu… là đầy đủ ý thức. Còn nếu không, thì mọi phát ngôn khác đều là bị coi là bị “kẻ xấu” xúi giục. 
Một thế giới mơ về sự tốt đẹp lẽ nào đều bị xúi giục như vậy sao, từ Joshua Wong của Hồng Kông, cho đến Malala Yousafzai ở Pakistan…có thể đều bị xúi giục? Hay chỉ có trẻ con Việt Nam trong nền giáo dục yếu kém này mới không thể có tư duy riêng và bị mượn miệng nói thay? 
Trong một câu chuyện cổ của Ấn Độ, kể rằng, có hai ông thầy tu ngồi trước cửa ngôi đền thờ gần dinh thự nhà quan. Ông thầy tu ngồi gần ngôi nhà quan lớn, vẫn hay cố ý đọc kinh thật to để quan lớn nghe thấy, mong được có cơ hội ban thưởng. Khi cả hai chết đi và được gặp Phật. Ngài ban tặng cho vị thầy tụng kinh thầm lặng một chiếc chén bằng vàng, còn người tụng kinh thật to là một nắm cát. Vị thầy tụng kinh to tiếng thấy vậy, tức giận phân bì. Phật im lặng nhìn ông ta rồi nói “Ngươi chỉ mượn kinh, tụng to tiếng chỉ để cho quan lớn nghe thấy, chờ một ơn mưa móc của kẻ thế tục, chứ đâu phải tụng kinh để độ thế cứu khổ? Lâu đài của ngươi xây mong manh dã tràng như cát, nên kẻ tu thân phải biết xây lại từ đầu”. 
Trong lao xao những lời phản biện, cũng có không ít người mượn chuyện chỉ trích quan điểm về giáo dục của cậu bé 14 tuổi, mà nghe chừng chỉ như giới thiệu bản chất cơ hội của mình với chế độ, chờ một ơn mưa móc cho phận tôi đòi, chứ nào phải nói lời cho thế gian?
Cậu bé lớp 8 chắc không phải là kẻ hô hoán quan điểm để tìm lợi cho mình, khác với không ít kẻ tiểu nhân đắc chí trong xã hội hôm nay vẫn luôn tìm thấy khe lạch xum xoe của mình. Cậu bé chỉ nói ý riêng của mình, nhưng trong diễn từ ấy, người ta nhìn thấy một xã hội Việt Nam đang lắc đầu ngao ngán, bàn bạc với nhau khi nhìn thấy mình đang là vật thí nghiệm trong một trò chơi thực tế giả trí tuệ. Người ta nhìn thấy các bậc phụ huynh đã hết kiên nhẫn và ta thán ngay khi có mặt con cái của mình. 
Đúng, có thể cậu học sinh không nói chỉ có ý của mình, mà còn nói thay cho hàng triệu con người đang quay quắt chờ một đổi thay tốt đẹp hơn, từ những gì đã áp đặt một cách ngu xuẩn lâu nay. 
Lời trẻ thì có thể ngô nghê và không êm tai, nhưng lời trẻ trong ngôi nhà là sự thật, chúng ta cũng nên lặng nghe mà suy nghĩ như một người có học. Khi những người già chỉ còn biết nói dối, sợ hãi và xu nịnh, thì dân tộc Việt chỉ còn mong được nghe thêm lời của trẻ trong ngôi nhà của mình.
————
https://nhacsituankhanh.wordpress.com/

Đánh giá chính sách của Obama đối với châu Á

FOREIGN AFFAIRS
Sept/Oct 2015

Obama and Asia
Confronting the China Challenge
Thomas J. Christensen
 
THOMAS J. CHRISTENSEN is William P. Boswell Professor of World Politics of Peace and War at Princeton University and the author of The China Challenge: Shaping the Choices of a Rising Power (Norton, 2015), from which this article is adapted. From 2006 to 2008, he was U.S. Deputy Assistant Secretary of State for East Asian and Pacific Affairs.
 
China’s rise poses two broad challenges for U.S. foreign policy: how to deter the People’s Republic from destabilizing East Asia and how to encourage it to contribute to multilateral global governance. Although China is not yet a military peer competitor of the United States, it has become powerful enough to challenge U.S. friends and allies in East Asia and to pose serious problems for U.S. forces operating there. And although China is still a developing country with significant domestic problems, it has become an important enough actor that its cooperation is necessary to solve global problems such as nuclear proliferation, climate change, and international financial instability.
At the end of President George W. Bush’s second term, the U.S.-Chinese relationship was heading in the right direction on both fronts. Under President Barack Obama, significant progress has been made on some issues, but the U.S.-Chinese security relationship and the Asia-Pacific region in general are far more tense today than they were at the start of 2009. That is not necessarily the Obama team’s fault, however, because Chinese actions bear much of the blame. China emerged from the global financial crisis cocky on the international stage but insecure at home, a toxic combination that has made managing relations with it even more difficult than usual. With some exceptions, the Obama administration has generally done well under what have been extremely difficult circumstances. The next administration will face the same double challenge and will need to build on its predecessor’s accomplishments and learn from its successes and failures.
TALK ISN’T CHEAP
China weathered the financial crisis much better than the United States and other great powers, increasing its confidence in international interactions. But the crisis also worried Chinese elites about the sustainability of a domestic growth model that was so reliant on export markets and large infusions of capital. Since jettisoning communist economic principles in 1978 under Deng Xiaoping, moreover, the Chinese Communist Party has been more reliant than ever on nationalism for legitimacy, and the Western origins of the crisis, together with China’s successful response, led many in China to think that the time had come to stop deferring to others and instead assert Beijing’s interests more forcefully. China is no democracy, but Chinese leaders cannot entirely ignore these voices—particularly when the crisis increased Beijing’s concerns about maintaining economic growth and social stability over the long term and underscored the need for controversial measures to avoid a slowdown. The result is that Beijing has become more assertive in staking its claims in the East China and South China Seas and has reacted more sharply to the assertion of claims by others.
On global governance, a Chinese leadership that feels strong on the international stage but scared at home has been even more reluctant than usual to pay economic and political costs to help stabilize the global economy, mitigate climate change, punish rogue regimes and aggressive states, and pressure nuclear proliferators. Nor does it help that China is persistently asked to contribute more to such efforts by a collection of much wealthier countries, former enemies, and current rivals.
In dealing with these formidable challenges, the Obama administration has a mixed record. It has been particularly effective in bolstering the U.S. diplomatic presence in the Asia-Pacific region and has contained and managed tensions well when they have cropped up. But the administration has also made some notable mistakes, particularly in the areas of rhetoric and public diplomacy. Those errors have rendered China even pricklier and have further reduced the prospects for cooperation with the United States.
During its first term, the administration adopted overly muscular language about “pivoting” back to East Asia as the United States withdrew from the wars in Afghanistan and Iraq. At the most basic level, this was inaccurate—the United States had never left Asia and therefore did not need to pivot back to it. In fact, many of the policies later associated with the so-called pivot—such as sending more submarines to Guam, rotating F-22 aircraft through Japan, sending littoral combat ships to Singapore, entering a free-trade pact with South Korea, and negotiating the Trans-Pacific Partnership—were in the works before Obama took office. But there were some new and positive elements added to the mix. The Obama administration sent top officials to Asia more frequently than its predecessor; improved relations with Burma (also called Myanmar); signed the Treaty of Amity and Cooperation in Southeast Asia, the founding document of the Association of Southeast Asian Nations; joined the East Asia Summit; and saw to it that the EAS and the ASEAN Regional Forum, often dismissed as talk shops, actually addressed important security issues.
Still, none of these laudable diplomatic moves required the exaggerated language about a pivot, which fed into Chinese conspiracy theories about alleged U.S. containment and encirclement. Ironically, the language also created problems with U.S. partners in Asia. They were supposed to be reassured, but because the United States had unwittingly suggested that it could not handle two problems at once, predictably some of them now worry that the United States might pivot away again whenever problems arise in other regions. To its credit, the administration recognized its mistake and dropped the term “pivot,” replacing it with the more benign “rebalance,” but much of the damage had already been done.
This was not the administration’s only linguistic stumble. After a top administration official publicly called for the United States and China to reassure each other in the security realm in September 2009, the administration agreed to a Chinese request for a joint statement during Obama’s trip to China in November of that year. Most of that statement turned out to be a list of unobjectionable common interests and aspirations. But one section of the document seemed both new and ill advised: “The two sides agreed that respecting each other’s core interests is extremely important to ensure steady progress in U.S.-China relations.” Among the items Beijing defines as its core interests are the continued monopoly on power of the Chinese Communist Party and the protection of the country’s territorial integrity and sovereignty. The United States does not take measures to incite political turmoil in China, but Washington still promotes political liberalization and a move away from one-party rule. And although there is nothing wrong in principle with the United States’ respecting China’s territorial integrity, there are important aspects of Beijing’s sovereignty claims over Taiwan; the Diaoyu Islands (known in Japan as the Senkaku Islands); and the islands, rocks, shoals, and waters of the South China Sea with which the United States does not agree. Realizing that invoking “core interests” was a mistake, senior U.S. officials stopped using it after the summit—but Chinese elites have often invoked the term in complaints that Washington has gone back on its word.
The Obama administration’s initial attempts at reassurance backfired by creating false expectations in China that the new administration was going to be much more accommodating than its predecessors. These hopes were dashed when, in early 2010, the Obama administration behaved in a very traditional manner, selling arms to Taiwan, criticizing Beijing for infringing on Internet freedom, and arranging for the president to meet with the Dalai Lama. Because of the earlier positive rhetoric, this continuation of standard policy came as a real disappointment in China, feeding feelings of betrayal and producing domestic demands for a tougher foreign policy.
WAKING UP THE NEIGHBORS
These days, tensions in East Asia are significantly greater than they were in January 2009, and the United States finds itself using military assets on a fairly frequent basis to send signals to Beijing about U.S. interests in the East China and South China Seas. But despite Chinese complaints to the contrary, these tensions were not manufactured in Washington, and at various times, the Obama administration has adopted constructive policies to reduce them.
In 2010, for example, Beijing’s ham-fisted moves managed to alienate most of China’s neighbors. When North Korea attacked South Korea twice, killing South Korean sailors, soldiers, and citizens, Beijing appeared to try to shift the blame to Washington and Seoul and protect Pyongyang from any international consequences. At first, the Obama administration wisely asked China to cooperate on reining in North Korea. But when Beijing demurred, Washington turned to Japan and South Korea to coordinate a reaction to Pyongyang’s belligerence, which ultimately led to enhanced intelligence cooperation among the three countries and U.S.–South Korean exercises in the Yellow Sea. Beijing did not like the tightening alliances that North Korean aggression was creating in its neighborhood, and so it reportedly stepped in to dissuade Pyongyang from carrying out further threatened provocations in December 2010.
Beijing has also acted abrasively toward its neighbors in various sovereignty disputes. At the ASEAN Regional Forum in July 2010, U.S. Secretary of State Hillary Clinton noted that although the United States took no position on the sovereignty disputes in the South China Sea, it expected them to be managed peacefully. She called for the creation of multilateral confidence-building measures and codes of conduct and requested that all the disputants clarify their claims in ways consistent with international law. This constructive and well-formed position was widely supported in Southeast Asia but elicited a bullying diplomatic response from the Chinese foreign minister. Beijing thereby alienated China’s southern neighbors and made them all the more willing to cooperate with the United States and with one another in ways that might have long-term payoffs for U.S. interests in the region.
Chinese-Japanese relations, meanwhile, grew tense after Japanese authorities arrested the captain of a Chinese fishing boat near the Diaoyu/Senkaku Islands in September 2010. To temper China’s reaction, the United States reiterated its long-standing policy toward the islands: it takes no position on their underlying sovereignty but recognizes Japan’s administrative control, and so Article 5 of the U.S.-Japanese defense treaty applies there. The message was clear: China should be careful about how far it goes in coercing Japan to engage in negotiations. A couple of years later, China reacted harshly once again, this time to the purchase of some of the islands by the Japanese central government from a private Japanese family. Anti-Japanese protests and riots broke out in China, and Beijing lashed out diplomatically at the alleged “nationalization” of the islands. Beijing increased its activities in the sea and air around the islands and eventually declared an air defense identification zone in the East China Sea that covered the disputed area. The sudden, clumsy, and provocative rollout of the zone was criticized by the United States and other countries in the region, and Washington dispatched B-52 bombers to the area to underscore its continued freedom of navigation there. The tensions between China and Japan in the East China Sea were useful in Washington’s effort to urge Tokyo to assume a larger role in its alliance with the United States. But the Obama administration also reportedly tried to keep Japan from escalating matters further. This carefully calibrated set of responses has not resolved the dispute, but it has kept the situation from boiling over and made it more tractable. Today, China and Japan seem to be following an agreed-on protocol of patterned patrols around the islands, and tensions seem more manageable.
Elsewhere in the region, as in its dealings with the Philippines over the Scarborough Shoal, Beijing has exploited provocations by others to attempt to legitimize Chinese efforts to consolidate control over territory that China has long claimed but not administered. At other times, as in its 2012 announcement of a new administrative unit covering the mostly uninhabited Paracel and Spratly Islands and the Macclesfield Bank, China has acted assertively even without any clear provocation.
Recently, China has triggered worries throughout the region by pursuing large-scale land reclamation and infrastructure projects on disputed reefs, leading U.S. Secretary of Defense Ashton Carter to castigate Beijing at the May 2015 Shangri-La Dialogue, an international security forum held annually in Singapore. The Obama administration is generally correct to criticize provocative Chinese behavior and consistently assert the international community’s freedom of navigation in the East China and South China Seas. And it is smart to respond to controversial Chinese moves by reenergizing its regional alliances, strengthening partnerships with nonallies, and helping its local partners develop capabilities to monitor and counter Chinese assertiveness. Such a course does not immediately solve the region’s problems, but it might eventually help Beijing recognize the benefits—to everybody—of returning to a less aggressive, more reassuring course, like the one it followed for most of the first decade of the new millennium.
ALL TOGETHER NOW
When it comes to eliciting Chinese cooperation on global governance issues, such as nonproliferation, intervention in regional and civil conflicts, and climate change, the Obama administration’s record is mixed.
On nuclear proliferation, there have been nothing but setbacks in getting China to help halt North Korea’s development of nuclear weapons and delivery systems but more progress on easing Iran toward a negotiated pause of its nuclear program. China has signed on to relevant UN resolutions against both countries, albeit only after working to water them down. More important, it continues to provide an economic lifeline to Pyongyang and Tehran.
Chinese President Xi Jinping seems to have warmer relations with South Korea than North Korea and has downgraded China’s traditionally special relations with Pyongyang. This is a welcome development, especially after the government of his predecessor, Hu Jintao, sidled up to Pyongyang even when it was attacking South Korea. Yet China trades and invests more in North Korea today than it did in 2008, providing enough support to make U.S. and allied sanctions lose their bite. Beijing and Washington worked closely together on North Korean denuclearization in the six-party talks, particularly from 2006 to 2008, but those talks broke down in the last year of the Bush administration and have not been revived since. After three years of not talking, the Obama team concluded that that approach wasn’t working either, and so in the “Leap Day” arms control agreement of February 2012, the administration made a generous offer to restart negotiations. This was quickly scuttled by North Korea’s use of ballistic missile technology in a satellite launch, but the administration deserves some credit for pursuing a good-faith effort and thereby making clear to all reasonable observers where the true roadblock lies.
International pressure on Iran’s economy has increased sharply during the Obama years. Not wanting to get entangled in U.S. or European domestic sanctions laws that target third parties as well as the target in question, Chinese energy firms reduced purchases from Iran in 2012 and 2013. But Beijing views such laws as illegitimate and seemed to be searching for opportunities to do business with Iran despite them. And Beijing sharply increased its energy purchases once the thaw between Tehran and Washington began in late 2013. China was the only member of the P5+1 talks (which also included France, Russia, the United Kingdom, the United States, and Germany) that was both a net energy importer and willing to have normal economic relations with Tehran in the absence of a full nuclear agreement. The motivation for its ramped-up deals with Iran was probably largely economic, but its increased energy purchases during the negotiation process nevertheless reduced pressure on the Islamic Republic to accept the kind of permanent and fully verifiable nuclear deal preferred by U.S. and European negotiators.
As for interventions in regional and civil conflicts, at the end of the Bush years, China seemed to be slightly softening its traditional opposition to interference in the internal affairs of other countries. In 2006 and 2007, it began pressuring Khartoum to accept a UN peacekeeping plan for Darfur and then contributed the first non-African peacekeepers to that effort. In late 2008, China agreed to join a multilateral naval operation in the Gulf of Aden to fight piracy, which allowed for hot pursuit into Somali territorial waters. It seemed that Beijing might be warming up to the idea of becoming, in the words of former U.S. Deputy Secretary of State Robert Zoellick, a “responsible stakeholder” in the international system from which it was benefiting so greatly.
This trend continued into the Obama administration, when Beijing shocked practically everyone by voting in the UN Security Council in early 2011 to refer Muammar al-Qaddafi’s regime in Libya to the International Criminal Court for its brutal suppression of a rebellion during the Arab Spring. The Obama administration and the Europeans had wisely rallied support in the African Union and the Arab League for the referral before approaching China, and Beijing appeared reluctant to alienate so many fellow postcolonial nationalists by opposing the resolution. From that peak, however, things went swiftly downhill. When the NATO allies increased pressure on Libya by proposing UN-sponsored military action to protect the population of Benghazi, China abstained in the UN vote. When NATO air forces then exceeded the UN mandate by throwing their full support to the Libyan opposition, resulting in Qaddafi’s ultimate capture and killing, China felt betrayed by the UN process. Beijing subsequently joined Moscow in actively opposing U.S. and European efforts to move against the Assad regime in Syria. Later, in Ukraine, China focused more on foreign support for the Euromaidan revolution in Kiev than on the Russian intervention, and China opposed sanctions against Russia after its annexation of Crimea.
In short, any time the Obama administration has seemed to embrace a policy of regime change as heartily as the first-term Bush administration did, China has stopped supporting multilateral responses to regional and civil conflicts and pulled back to its earlier aloofness. This shift has fed back into China’s nonproliferation policy as well. Chinese elites now argue that it is natural for the Kim regime to want to avoid the fate of Qaddafi, who had given up his nuclear weapons program several years before his demise. So they deflect criticism that Beijing has not pressured North Korea sufficiently by emphasizing the failure of the United States and its allies to provide sufficient security assurances to Pyongyang.
Climate change, in contrast, represents a major bright spot in the U.S.-Chinese relationship. At the 2014 Asia-Pacific Economic Cooperation summit, Obama and Xi reached what might prove to be a historic agreement on greenhouse gas emissions. China committed itself to reaching peak carbon emissions by around 2030 and pledged to generate 20 percent of its future electricity from noncarbon sources. The United States, in turn, pledged to cut its total greenhouse gas emissions by 26 percent by 2025 from a 2005 baseline. These pledges from the two biggest emitters of greenhouse gases are essential to creating momentum for the 2015 UN Climate Change Conference, to be held in Paris at the end of the year. And no matter how disappointingly late the target date for Chinese commitments might seem to environmental activists, getting any numerical commitment from China was a tough slog for U.S. negotiators and represents a major accomplishment for American diplomacy. At the 2009 Copenhagen Climate Change Conference, after all, China had rallied emerging economies and developing countries against any such constraints, and its economy is large enough that its free-riding would scuttle any global deal.
LESSONS LEARNED
The Obama administration can also point to progress on various smaller issues in the U.S. relationship with China, from improved military-to-military ties, to meaningful dialogues on how to avoid incidents at sea, to the groundwork for an eventual bilateral investment treaty, to more easily secured visas for business travel and tourism. But it is the broader challenges posed by China’s rise—and the Obama administration’s successes and failures in addressing those challenges—that provide some lessons for future policy.
In order to bolster regional security and dissuade China from settling its disputes through coercion, the United States needs to maintain a robust presence in Asia and build stronger military, diplomatic, and economic ties with allies and other regional partners, even as it avoids overly dramatic actions and rhetoric that might suggest that its efforts are designed to contain China. When trying to gain Chinese support for multilateral global governance initiatives on proliferation or regional and civil conflicts, Washington should focus not on regime change but on the proscribed behavior of the states in question. When possible, it should gain support from regional organizations before approaching China in such endeavors (as the Obama administration did in regard to Libya). On climate change, meanwhile, Washington should try to get Beijing to mitigate its greenhouse gas emissions by leveraging Chinese leaders’ concerns about related domestic problems, such as low-altitude urban smog.
The starting point for the United States’ China policy needs to be a recognition that the People’s Republic has become a great power with a large dose of nationalist pride but remains a developing country with enormous domestic challenges and insecurities. The financial crisis of 2008 exacerbated both these contradictory realities, making dealings with Beijing even trickier than before. But future conflict is hardly a certainty, and the odds of it can be reduced by a combination of U.S. strength and diplomatic awareness of the likely limits of Beijing’s willingness to cooperate with the United States and its allies in East Asia and beyond.

Phóng viên Việt Nam đi đâu cũng chỉ nhìn phụ nữ, tìm chân dài

Những bóng hồng xinh đẹp và mạnh mẽ trên tàu bệnh viện hải quân Hoa Kỳ

Trên tàu bệnh viện USNS Mercy (T-AH19) của Hải quân Hoa Kỳ đang cập cảng Đà Nẵng có khá nhiều “bóng hồng” vừa xinh đẹp như người mẫu lại vừa mạnh mẽ như nam giới, tận tụy và luôn thường trực nụ cười!
Được mời lên thăm tàu bệnh viện USNS Mercy, cánh báo chí không khỏi xuýt xoa trầm trồ khi “phát hiện” trên tàu có những “bóng hồng” xinh đẹp như người mẫu. Trong số họ, có người là sĩ quan chỉ huy, có người là thủy thủ, quân nhân, y bác sĩ… Có người làm công việc bàn giấy, cũng có người làm công việc khiêng vác rất nặng nhọc.
Ở bất cứ cương vị nào, họ đều tỏ ra không thua kém nam giới. Khi cần thiết, họ cũng rất nghiêm khắc. Nhưng trên hết và luôn thường trực ở những “bóng hồng” này là sự cởi mở, chân tình, là nụ cười luôn nở trên môi và cả những khoảnh khắc đầy tinh nghịch ngay khi đang làm những công việc rất vất vả.
Dưới đây là một số hình ảnh về những “bóng hồng” trên tàu bệnh viện USNS Mercy mà PV Infonet ghi nhận được:
Nữ sĩ quan Elizabeth Feaster phụ trách bộ phận quan hệ công chúng của tàu bệnh viện USNS Mercy...
trao đổi với các bạn trẻ Việt Nam làm công tác phiên dịch về những nội dung cung cấp cho quan khách và báo chí
Nữ quân nhân xinh đẹp như người mẫu...
chào đón quan khách và báo chí lên tham quan tàu bệnh viện USNS Mercy
Nữ sĩ quan chỉ huy phụ trách Trung tâm điều trị y tế trên tàu bệnh viện USNS Mercy niềm nở đón các vị quan khách lên thăm tàu...
và giới thiệu về các hoạt động nhân đạo của tàu
Các nữ sĩ quan trên tàu bệnh viện USNS Mercy rất nhiệt tình...
và cũng rất... oai vệ!
Họ luôn tỏ ra rất tự hào với những gì mà tàu bệnh viện USNS Mercy đã làm được
Họ không chỉ làm công việc bàn giấy...
mà còn trực tiếp tham gia những công việc rất nặng nhọc
Nhưng dù thế nào thì trên môi họ cũng luôn thường trực nụ cười
Thậm chí họ còn vừa làm vừa... múa nữa kia!
Và cũng có những giây phút thư giãn, tạo dáng chụp hình lưu niệm khi đến một bến cảng mới!
HẢI CHÂU

 

TRẢ LẠI CHO LỊCH SỬ NHỮNG GÌ CỦA LỊCH SỬ...

Cuộc độc diễn "cướp chính quyền" của Việt Minh ngày 19/8/1945.
TRẢ LẠI CHO LỊCH SỬ NHỮNG GÌ CỦA LỊCH SỬ...

Không hề hạ thấp giá trị của ngày Tổng Khởi Nghĩa 19/8/1945 cũng như ngày Lễ Độc Lập 2/9/1945 nhưng cần đưa những giá trị lịch sử về đúng chỗ đúng nơi của nó.



Lâu nay sử sách luôn dạy học sinh rằng, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đứng lên Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền xóa bỏ chế độ thực dân Pháp, rồi Phát xít Nhật một cổ hai tròng. Nhưng sự thực thì có hai điều quan trọng không đưa vào sử sách nên đa phần các học sinh không biết. Thậm chí cả các gs, tiến sĩ giấy cũng ù ù cạc cạc.

Thứ Nhất đó là hoàn toàn không có thực dân Pháp nào trên toàn cõi Đông Dương cả. Và những người Pháp lúc ấy thì chỉ có những người Pháp dân sự, đàn bà và trẻ con. Bộ máy cai trị của Pháp, quân đội, cảnh sát, thuế quan...đều đã tan rã hoàn toàn từ mấy tháng trước, Khi ngày 9/3/1945 Người Nhật bất ngờ tấn công, bắt tù binh và tàn sát đẫm máu tất cả, đánh sập toàn bộ hệ thống cai trị của Pháp. Chỉ có một số dân sự Pháp, cùng các đơn vị quân đội thuộc trung đoàn 14eN thuộc địa chạy thoát sang Lào, Trung Quốc..Toàn quyền Đơ Cu cũng ở trong tù vào thời điểm Cách Mạng Tháng 8.  Cũng trong thời gian đó, quân đội Nhật đồn trú ở Việt Nam, choáng váng với 2 quả bom nguyên tử thả xuống nước họ ngày 6 - 9/8 và  với lệnh đầu hàng của Nhật Hoàng Hiro Hirto 15/8/1945. Tất cả lực lượng của Nhật đều ở trong trại.

Do vậy ngày 19/8/1945 thì không có một người nào trong cái gọi là Thực dân Pháp và Phát xít Nhật có mặt trên đường phố Hà Nội cả. Và họ cũng chẳng có trách nhiệm gì. Người Pháp thì đa số vẫn ở trong tù, người Nhật thì được lệnh cấm trại chờ quân Tàu Tưởng vào giải giáp từ vĩ tuyến 16 trở ra, và quân Anh giải giáp từ vĩ tuyến 16 trở vào.

Trong khi sử lề phải dạy học trò không ngượng mồm rằng Đảng đã dẫn dắt quần chúng cướp chính quyền, lật đổ chế độ thực dân Pháp và Phát xít Nhật thì lại không hề nói đến một thực tế hiển nhiên khác. Đó là nước Việt Nam ta đã được độc lập trước đó rồi. Ngày 11/3/1945 được người Nhật, sau khi lật đổ chế độ thực dân Pháp, chính thức trao trả độc lập cho Việt Nam thì Hoàng Đế Bảo Đại đã làm lễ tế tổ tồng và tuyên cáo Độc Lập ra toàn cõi. 

Tên nước là Đế Quốc Việt Nam, thống nhất ba miền làm một. Đây là một nền độc lập với thể chế nghị viện và Hoàng gia chỉ là hình thức kiểu như của các nước Nhật, Anh quốc, Thái Lan. Cũng nói thêm đây chính là lúc đất nước Việt Nam được độc lập với tất cả lãnh thổ QG rộng lớn nhất, bao gồm cả Hoàng Sa...điều mà khó có chính quyền nào sau này tự hào hơn được.

Lá cờ chính thức là Cờ Quẻ  Ly (hình)  tiền thân của các lá Cờ Vàng ba sọc đỏ, cờ chính thức của ba chế độ không CS sau này như  Quốc Gia Việt Nam 1949 - 1955, Đệ Nhất Cộng Hòa 1955-1963 và Đệ Nhị Cộng Hòa 1963...

Về vị Thủ Tướng đầu tiên của chính quyền này thì thoạt đầu vua Bảo Đại đã mời nhà chí sĩ Ngô Đình Diệm đứng ra lập chính phủ (TTg) nhưng ông Diệm đã từ chối, và nhà sử học Trần Trọng Kim, đứng đầu một chính phủ gồm toàn những trí thức, học giả danh tiếng thời đó như :
Bác sĩ Trần Đình Nam (Bộ Nội Vụ)  Ts luật Trần Văn Chương (Bộ Ngoại giao) và là thân sinh ra bà Trần Lệ Xuân, vợ ông Ngô Đình Như sau này. Ts luật Trịnh Đình Thảo, Bộ trưởng Tư pháp. Ts Luật Vũ Văn Hiền, Bộ trưởng tài chính. Gs Hoàng Xuân Hãn, Bộ trưởng giáo dục. Lưu Văn Lang, Kỹ sư bách nghệ Bộ trưởng Công chính, . Nguyễn Hữu Thi, Bác sĩ, đại thương gia, Bộ trưởng tiếp tế.Phan Anh, Luật sư, Bộ trưởng Thanh niên.

Ngoài ra còn có nhiều nhà trí thức có tiếng tăm cùng tham gia chính quyền như : Phan Kế Toại (Khâm sai Bắc bộ), Bác sĩ Trần Văn Lai (Thị trưởng Hà Nội), , Phó bảng Đặng Văn Hướng (Tỉnh trưởng Nghệ An), Phó bảng Hà Văn Đại (Tỉnh trưởng Hà Tĩnh), Giáo sư Đặng Thai Mai (Tỉnh trưởng Thanh Hóa)… Các ông Hoàng Đạo Thúy, Tạ Quang Bửu, Trần Duy Hưng, Nguyễn Xiển, Vũ Văn Cẩn, Ngụy Như Kontum. Giáo sư Nguyễn Lân (Thị trưởng Huế) và là ông nội của siêu mẫu cây xanh Nguyễn Lân Thắng...

Mặc dù tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi, nhưng chính phủ này cũng đã làm được một số việc quan trọng như : tuyên bố nước Việt Nam đôc lập, và hủy bỏ Hiệp ước Bảo hộ 1884 (Hòa ước Patenôtre). Thành lập Đế quốc Việt Nam, thống nhất về mặt danh nghĩa, đưa đất Nam Kỳ trở lại với nguồn cội Việt Nam. Thay chương trình học bằng tiếng Pháp chuyển sang học bằng tiếng Việt. Hành chánh được cải tổ với việc dùng chữ Việt trong tất cả các giao dịch của chính phủ.

Quan hệ với nước Nhật thì bị cho là bù nhìn cho Nhật nhưng kể cả Hoàng Đế Bảo Đại cho tới chính phủ TTK thì đều không thân thiện với người Nhật, mặc dù điều kiện duy nhất mà người Nhật đặt ra, là ở trong Khối Đại Đông Á. Nên mặc dù Nhật đã trao hoàn toàn độc lập nhưng đáng tiếc chính phủ Đế Quốc Việt Nam lại từ chối thành lập Bộ Quốc Phòng, từ chối thành lập quân đội quốc gia. Không có quân đội, Đế Quốc Việt Nam sụp đổ chỉ bởi một nhóm cơ hội CS.

Và đấy cũng là điểm yếu căn bản của nền độc lập này, vì ngày 19/8/1945 khi nhân dân Hà Nội tổ chức diễu hành để chào mừng độc lập. Bỗng có lá cờ đỏ sao vàng buông xuống từ mặt tiền, một đôi trai gái giật micro và kêu gọi ủng hộ Việt Minh. Xin thưa rằng trong không khí những ngày sục sôi đó thì treo lá cờ nào, lên diễn đàn nói gì thì cứ nói. Chẳng ai bắt tội cả. Đoàn người sau mít tính đã kéo đến tòa nhà Bắc Bộ Phủ. Khâm sai đại thần Phan Kế Toại đi vắng, đội lính lệ mở cửa cho một số đông người vào cửa  chính đưa thư đòi giải tán. Vì theo nguyên tắc mà Đồng Minh đã đặt ra là tất cả các chính quyền do người Nhât lập ra ở các vùng họ xâm lược đều không có giá trị, phải giải tán.

Ấy thế mà sau này sử dậy, rồi có cả hình chụp là nhân dân đã ùn ùn trèo qua hàng rào sắt. Có lẽ những tay thợ chế lịch sử Đảng VN sau này đã bê nguyên si hình ảnh cuộc tấn công Cung Điện Mùa Đông bên Nga cho nó có vẻ hoành tráng, đầy tính Cách Mạng, cho nó có vẻ như phá ngục Basti chăng.

Tóm lại đó là một cuộc CM chẳng ai chết, không có một phát đạn nào. Và chỉ diễn ra thành công ở duy nhất ở Hà Nội. Và ông Hồ Chí Minh cùng các đầu lãnh còn không ngờ tới thành công này khi ngày 19 đó họ còn ở tuốt trên rừng. Và chỉ sau khi nhận được tin báo thành công, thì các đầu lĩnh mới vào Hà Nội, ở nhờ nhà bà địa chủ Nguyễn Thị Năm, người sau này bị xử vắn trong vụ Cải Cánh Ruộng Đất. Còn ở Sài Gòn thì lộn xộn nhưng do các sứ quân chớp thời cơ không ai coi cả nên làm chiếm lấy. Còn tại kinh đô Huế thì mặc dù không có lính bảo vệ vì có một số lính ngự binh thì rút vào thành để bảo vệ Hoàng Gia, nhưng CM cũng không nổ ra và Kinh Đô cũng không bị thất thủ. 

Nhưng thời mạt mới thấy tôi trung. Và xuất hiện phản thần Phạm Khắc Hòe, Ngự tiền Đổng lý văn phòng Bảo Đại là một Việt Minh cài vào. Ông này liên tục thi hành lệnh từ Hà Nội và luôn dọa dẫm Hoàng Đế và Hoàng Gia theo kiểu thổi lỗ tai tung tin vịt. Theo cuốn hồi ký Từ kinh thành đến chiến khu... thì ông ta cứ kể cho Bảo Đại về cái chết của vua Lui thứ 16 và Hoàng Hậu M. Antoannet. Nhất là ông ta lợi dụng việc đánh bài với bà Từ Cung để kể tỉ mỉ về chuyện máy chém đoạn đầu đài đẫm máu của vợ chồng vua Pháp cho hai bà trong cung, là Bà Từ Cung, mẹ Bảo Đại và Hoàng Hậu Nam Phương khiến cho hai bà yếu bóng vía này, không suốt ngày cầu Phật., thì cũng cầu Chúa (bà NPHH) khiến không khí trong thành Nội như có ma ám.

Quả là thần diệu. Trong khi chẳng có ai bên Cách Mạng đến gõ cửa thành Ngọ Môn thì Hoàng Đế Bảo Đại qua cận thần Phạm Khắc Hòe đã gửi điện mừng và mời phái đoàn chính phủ ở Hà Nội vào Huế để nhận đầu hàng, ấn kiếm. Và thế là vua Bảo Đại, đã tự nguyện trở thành vị vua cuối cùng của triều đại Nguyễn lừng lẫy khi ra chiếu tuyên bố thoái vị ngày 24/8/1945 và toàn cõi VN đã tuân theo. Trong chiếu thoái vị đọc trước vài vị đại diện VM, vừa từ HN vào có đoạn như sau :

"Đáp ứng lời kêu gọi của Ủy ban CM, tôi sẵn sàng thoái vị. Trước giờ quyết định này của lịch sử quốc gia, đoàn kết là sống, chia rẽ là chết. Tôi sẵn sàng hy sinh tất cả mọi quyền lợi, để cho sự đoàn kết được thành tựu, và yêu cầu đại diện của Ủy ban (Việt Minh) sớm tới Huế, để nhận bàn giao."

Đổng lý Phạm Khắc Hòe thảo chiếu thoái vị, với câu nói nổi tiếng mà ông Hoàng đã đọc những ngày sôi nổi ấy : 

"Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước bị trị"

Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước VNDCCH như ngày nay. Tất cả đều xuất phát từ một cuộc tuần hành bình thường, một cuộc chiến của những người cướp chính quyền với không có đối thủ nào để thành công. Nếu có kể công thêm thì có thể kể thêm một ông Hoàng, hai bà Hoàng và một kẻ phản thần...

MTA

Giờ đây lại giận nhau, chửi nhau, oánh nhau và bỏ nhau...

Đôi Dép

- Thơ Nguyễn Trung Kiên
Thôi rồi tay nắm tay lần cuối
Chia nẻo giang hồ vĩnh biệt nhau...

Xin mượn 2 câu thơ trên của thi sĩ Vũ Hoàng Chương để nói đến tâm trạng của hai người từng yêu nhau tha thiết, hai vợ chồng từng đầu gối tay ấp, từng thề non hẹn biển, sống chết có nhau nhưng giờ đây họ lại giận nhau, chửi nhau, oánh nhau và bỏ nhau...


Những người tình bỏ nhau xa nhau như những dòng sông nhỏ, không bao giờ có thể quay trở lại được nữa. Những người đã thề rằng sẽ không đội chung bầu trời , thề chia hai thế giới, thề ra đi sẽ không quay đầu lại...

Nhưng họ đã trở lại với nhau, như hai chiếc dép cũ không thể rời nhau. 

Và bài thơ Đôi Dép của Nguyễn Trung Kiên đã nói về tâm trạng đó một cách ví von nhất nhưng có lẽ cũng chẳng nên thơ nhất. Bài thơ có cái tựa, cũng như hình tương không được đẹp cho lắm với những tình yêu bay bổng lãng mạn, nhưng các bạn ơi, khi tình yêu đã nhuốim màu chia ly đổ vỡ, tình đẹp ngày nào đã vỗ cánh bay đi rồi thì còn chi để nói. Chỉ còn mong được quay lại với người xưa, tình xưa dù chẳng còn trọn vẹn niềm vui. Và có lẽ chỉ những ai đã trải qua cảnh này, cảnh đi để rồi trở lại, cảnh vá víu, gương vỡ lại lành hay rổ rá cạp lại...thì cũng chẳng ai than phiền về việc được ví như hai chiếc dép cũ xì.

Vâng. Vậy mà họ đã trở lại. Và dù chỉ như những đôi dép cũ nhưng họ lại thấy không thể thiếu nhau trong cuộc sống này. Họ đã có lúc suýt mất nhau. nhưng rồi tìm lại được nhau khi cả hai cùng đi trên hai con đường khác nhau. Họ đi xa để thấy nhau gần hơn, đi lạ tìm quen...Tha thứ cho nhau để trở về, và trở về để tha thứ cho nhau...như hai chiếc dép cũ không ai coi trọng nữa nhưng nếu lại là cặp đôi với nhau thì đó sẽ là Cặp Đôi Hoàn Hảo nhất, không phải trên pist mà trên con đường sánh bước suốt cuộc đời cùng nhau. Đó là hai con người Trời sinh ra cho nhau, vì nhau và của nhau...

Và bài thơ đã làm cho cái hình ảnh ấy đẹp, nên thơ và lãng mạng không thua kém tình yêu ban đầu. Những câu thơ nhẹ nhàng nhưng tha thiết khiến cho chúng ta, và nhất là những người đã từng đồng cảnh ngộ đổ vỡ chia ly sẽ như động chạm đến hết các tầng cảm xúc thầm kín, sẽ rung động đến tận từng tế bào yêu bởi sự đồng cảm mà ta muốn chia sẻ đến tận cùng những câu thơ da diết nhưng mạnh mẽ như những lời thề nguyền thủy chung đôi lứa. Những câu thơ giản dị, những cảm xúc bình thường ngập tràn trong bài thơ khiến như ai đọc cũng như thấy mình ở trong đó.

Và không thể nói đến bài thơ Đôi Dép mà không nhắc đến tác giả vô danh Nguyễn Trung Kiên. Có lẽ vào một thời điểm Vũ Trụ quay cuồng, Đất Trời giao hợp và các nàng Thơ sexy nhảy múa xung quanh, thì tác giả NTK đã xuất thần viết ra bài thơ Đôi Dép. Một bài thơ hay nhất viết về đề tài tái hợp, tái hôn. Sẽ khó có bài thơ nào qua mặt được bài thơ này trong đề tài khó nói, khó viết này. 

Mặc dù còn tranh cãi về tác phẩm cũng như tác giả nhưng bài thơ này đã được nhiều công dân mạng bình bầu là một trong những bài thơ tình hay nhất, cũng như là bài thơ được yêu thích nhất chỉ sau lần đọc đầu tiên, điều không dễ với bất cứ bài thơ nào, đã chứng tỏ rằng trong văn chương thơ cả không cần số nhiều nếu cái ít là tinh túy, không cần cao sang văn vẻ miễn là Hay.

Dù chìm vào quên lãng nhiều năm nay, nhưng bài thơ Đôi Dép đã lưu tên tác giả Nguyễn Trung Kiên trong làng thơ Việt Nam, tuy không so sánh được với Tây Tiến của Quang Dũng, Hai Sắc Hoa Tigôn của T.T.Kh., Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan, nhưng nó cũng đưa tên ông trong vòng của những vì sao đơn độc lóe sáng rồi vụt tắt, nhưng cũng đủ để hòa vào hàng ngàn vạn vì sao sáng trên bầu trời Thi Ca Việt Nam chúng ta
MTA

ĐÔI DÉP

Bài thơ đầu anh viết tặng em
Là bài thơ anh kể về đôi dép
Khi nỗi nhớ ở trong lòng da diết
Những vật tầm thường cũng biến thành thơ

Hai chiếc dép gặp nhau tự bao giờ
Có yêu nhau đâu mà chẳng rời nửa bước
Cùng gánh vác những nẻo đường xuôi ngược
Lên thảm nhung xuống cát bụi cùng nhau

Cùng bước mòn, không kẻ thấp người cao
Cùng chia sẻ sức người đời chà đạp
Dẫu vinh nhục không đi cùng người khác
Số phận chiếc này phụ thuộc chiếc kia

Nếu ngày nào một chiếc dép mất đi
Mọi thay thế đều trở nên khập khiễng
Giống nhau lắm nhưng người đời sẽ biết
Hai chiếc này chẳng phải một đôi đâu

Cũng như mình trong những lúc vắng nhau
Bước hụt hẫng cứ nghiêng về một phía
Dẫu bên cạnh đã có người thay thế
Mà trong lòng nỗi nhớ cứ chênh vênh

Đôi dép vô tri khắng khít song hành
Chẳng thề nguyền mà không hề giả dối
Chẳng hứa hẹn mà không hề phản bội
Lối đi nào cũng có mặt cả đôi

Không thể thiếu nhau trên những bước đường đời
Dẫu mỗi chiếc ở một bên phải trái
Nhưng tôi yêu em ở những điều ngược lại
Gắn bó đời nhau vì một lối đi chung

Hai mảnh đời thầm lặng bước song song
Sẽ dừng lại khi chỉ còn một chiếc
Chỉ còn một là không còn gì hết
Nếu không tìm được chiếc thứ hai kia

NGUYỄN TRUNG KIÊN

Danh sách Con Ông Cháu Cha "khủng" ở Việt Nam

Danh sách Con Ông Cháu Cha "khủng" ở Việt Nam.

 - Lâm Văn Bé
CON CỦA THỦ TƯỚNG NGUYỄN TẤN DŨNG

 Chúng tôi bắt đầu với người có nhiều quyền lực, gian xảo và tham nhũng nhất nước hiện nay là thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.



Lý lịch của Nguyễn Tấn Dũng thật mù mờ. Trên trang mạng của Nguyễn Tấn Dũng ghi là sinh năm 1949 tại Cà Mau, nhưng ngôi nhà tự nguy nga của Dũng thì ở Rạch Giá. Ông Hoàng Dũng, một cán bộ Văn phòng Trung ương đảng đã làm việc với nhiều ủy viên cao cấp trong đảng, đã tiết lộ nhiều bí mật về đời tư của nhiều người lãnh đạo. 

Về Nguyễn Tấn Dũng, ông viết : «Theo cụ Nguyễn văn Linh, Tổng Bí Thư, thì trong thời gian Nguyễn Chí Thanh làm Bí thư Liên khu ủy Khu IV từ năm 1948 đến 1950 đã có quan hệ với một cán bộ phong trào ở đây và sinh ra Nguyễn Tấn Dũng và cụ còn cho biết là Nguyễn Tấn Dũng còn có một người em trai nữa cũng là con của tướng Thanh.

Cũng trong tài liệu nầy, ông Hoàng Dũng tiết lộ là có gặp nhiều lần Nguyễn Tiến Thắng (Tư Thắng) là em của Nguyễn Tấn Dũng (Ba Dũng). Ông viết về Tư Thắng như sau : Điều tôi quan tâm nhất là anh ta có quan hệ với nhiều người Đài Loan, đặc biệt trong mạng lưới các chân rết của Tư Thắng có một ngân hàng Đài Loan hoạt động chui tại VN là First China Bank. Như vậy, có thể hiểu được đây chính là «sân sau» của Ba Dũng và để tránh đụng chạm với các thế lực khác cạnh tranh, anh em ông Ba Dũng đã nhắm vào địa bàn hoạt động chủ yếu ở miền Trung và Nam Bộ, sau đó việc rửa tiền và chuyển ngân lậu được thực hiện qua ngã Đài Loan… 

Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy (Paris), căn cứ vào sự nâng đỡ tận tình của tướng Lê Đức Anh (chủ tịch nước 1992-1997, nay đã hơn 90 tuổi nhưng vẫn còn uy thế trong Trung ương đảng) lại đưa giả thuyết không những Nguyễn Tấn Dũng mà cả Nguyễn Minh Triết đều là con rơi của Lê Đức Anh (cần phân biệt với tướng Lê Hồng Anh, là đàn em được Dũng cất nhắc cho làm Bí Thư Tỉnh Rạch Giá, rồi phong quân hàm đại tướng, Bộ trưởng bộ Công An cho đến tháng 8/2011)

Dù là con của ai, căn cứ vào lý lịch và đường hoạn lộ thênh thang của Dũng, chắc chẳn Dũng là con rơi của một cán bộ cao cấp cộng sản. Lúc 12 tuổi, Dũng đã bỏ học (vừa học xong bậc tiểu học) đi làm du kích, y tá cứu thương ở vùng Cà Mau rồi chính ủy tiểu đoàn, trung đoàn ở vùng Cà Mau, tiến lên đến Tỉnh ủy Kiên Giang. Trong thời gian nầy (1980-1985), Dũng đã có công bắt nhóm Trần Văn Bá (bị xử tử), Mai Văn Hạnh được tha trở về Pháp vì là bạn học cũ của thủ tướng Pháp thời đó. Ngoài ra, Dũng còn tổ chức những cuộc vượt biên bán chính thức ở Rạch Giá và Hà Tiên để làm giàu cho đảng và cho cá nhân. 

Nhờ Võ Văn Kiệt và Lê Đức Anh cất nhắc, Dũng được đưa về trung ương làm Thứ trưởng Công An (1995-1996), Thống đốc Ngân hàng, Phó Thủ Tướng rồi Thủ Tướng (thay thế Phan Văn Khải) từ tháng 11-2006 và được tái cử trong kỳ đại hội đảng lần thứ XI (2010). Thử tưởng tượng một người vừa học hết tiểu học (sau nầy có học trường đảng cho có lệ, nhưng trong lý lịch ghi là Cử Nhân Luật), mà được đưa lên làm thống đốc ngân hàng trong thời kỳ kinh tế Á châu bị khủng hoảng, và thủ tướng của một quốc gia có nhiều liên hệ với các cường quốc, thì phải hiểu là việc lãnh đạo quốc gia đối với cộng sản là việc riêng của đảng.

Ngoài ra, Nguyễn Tấn Dũng lại là người có nhiều mưu trí và thế lực trong Trung ương đảng, là đảng viên cao cấp duy nhất sớm gởi con du học ở Mỹ và làm sui gia với Việt kiều, điều cấm kỵ tối hậu của đảng. Báo chí thuật lại trong lần họp hội nghị APEC năm 2006, Tổng Thống George Bush chúc mừng xỏ xiên Dũng có con du học ở Mỹ và lấy Việt kiều, Dũng bối rối phải chống chế là con trai đi học bằng học bổng (có lẽ để biện hộ với lương của thủ tướng độ 1000 mỹ kim thì làm sao có thể cho con du học) và lờ đi chuyện con gái lấy Việt Kiều.

Đứa con mà Bush nhắc đến là Nguyễn Thanh Nghị, tốt nghiệp Tiến sĩ Kỹ sư công chánh (Structural Engineering) ở đại học George Washington University, và khi về VN giảng dạy tại đại học Kiến Trúc thành phố HCM, rồi Phó Hiệu Trưởng (Phó Khoa Trưởng) trường nầy. Trong đại hội đảng lần thứ XI, Dũng đã dọn đường lãnh đạo cho con bằng cách đưa Nguyễn Thanh Nghị vào làm ủy viên dự khuyết trong Trung ương đảng và ngày 11-11-2011, Dũng đã bổ nhiệm con trai mình làm Thứ Trưởng Bộ Xây Dựng mặc dù bộ nầy đã có 5 thứ trưởng (Dũng đã hèn nhát không ký tên trên nghị định bổ nhiệm mà sai phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ký thay). Tại VN hiện nay, hai mỏ vàng để hốt bạc và tham nhũng là ngành xây dựng (đất đai và địa ốc) và hải quan. Về mặt kinh tế, từ nhiều năm nay, Nghị có liên hệ mật thiết với Công ty Betexco là đại công ty xây cất các tòa nhà chọc trời ở Saigon và HàNội. Tầm hoạt động của Betexco còn bao trùm cả kỹ nghệ may dệt, vô chai và thủy điện. Như vậy, Nguyễn Thanh Nghị là cột trụ chính trị và kinh tế cho gia đình Dũng và cho đảng Cộng Sản.

Đứa con lấy Việt kiều tên là Nguyễn Thanh Phượng, du học ở Thụy Sĩ, đậu MBA ở International University in Geneva là đại học có liên kết với Michigan State University (cô chỉ đến Mỹ năm 2004 trong 2 tuần để nhận bằng từ đại học nầy chớ không có du học tại Mỹ). 
Tháng 1 năm 2006, lúc mới 26 tuổi, Phượng đã làm Giám đốc đầu tư của công ty Vietnam Holding Asset Management, quản trị trên 100 triệu MK của các nhà đầu tư Thụy Sĩ tại VN. Đến tháng 11 cùng năm, Phượng làm Chủ tịch Quỹ đầu tư chứng khoán Việt (Viet Capital Fund Management Joint Stock Company, viết tắt là VCFM) gồm hàng ngàn tỷ bạc (VN) của các nhà đầu tư và công ty người Việt. 

Công điện Wikileaks tiết lộ là trong báo cáo của Tổng Lãnh sự Hoa kỳ tại Saigon là Seth Winneck gởi về Bộ Ngoại giao ngày 26/12/2006 đã viết : « Tại sao người ta có thể tin tưởng để giao một số vốn khổng lồ như thế cho một người trẻ tuổi thiếu kinh nghiệm như Phượng. Và câu trả lời hiển nhiên là về mặt chính trị, giao quỹ đầu tư cho cô con gái cưng của thủ tướng quản trị là một điều khôn ngoan bởi lẽ quỹ nầy tập trung những ngành mà chánh phủ kiểm soát như dầu khí, ngân hàng và truyền thông »

Năm 2011, Phượng 31 tuổi là một tỷ phủ, Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị Công ty Chứng khoán Bản Việt sở hữu 6,5 triệu cổ phần chiếm 43,2% vốn của công ty, Chủ tịch HĐQT Công ty bất động sản Bản Việt và vài ngày trước khi người anh được cử là thứ trưởng, Phượng được đề cử vào HĐQT Ngân hàng Bản Việt ( trước có tên là Gia Dinh Bank) với số vốn là 3000 tỷ VN. Với các thành tích trẽn, Phượng là nhà doanh thương trẻ tuổi kỳ tài nhất của thế giới !

Người chồng của cô Phượng là Nguyễn Bảo Hoàng (Henry Nguyen) con của Việt kiều «tội đồ» Nguyễn Bang (Nguyễn Tấn Dũng đã gọi Việt Kiều Nguyễn Cao Kỳ là tên tội đồ). Henry Nguyễn là Tổng Giám Đốc Điều Hành công ty IDG Ventures với số vốn là 100 triệu MK (sau tăng lên 200 triệu) phần lớn do người anh rể là Thomas Connor, một tài phiệt Mỹ đã làm ăn với Bộ Viễn Thông Bưu Chính Việt Nam, kiểm soát hầu hết hệ thống thuê bán Internet và truyền thông tại VN. Thomas Connor đã một lần khai phá sản, nhưng số đầu tư vẫn gia tăng, do đó câu hỏi đặt ra phải chăng các công ty do vợ chồng Phượng-Hoàng quản trị là cửa ngõ hợp pháp cho cha vợ và đồng bọn rửa tiền, tẩu tán tài sản tham nhũng ra ngoại quốc.

Đứa con thứ ba của Dũng là Nguyễn Minh Triết, học kỹ sư hàng không ở đại học Queen Mary tại Anh Quốc, và đã có giữ chỗ ở Bộ Quốc Phòng khi về nước. Gia đình Nguyễn Tấn Dũng là điển hình của chế độ con vua thì lại làm vua tại VN hôm nay.

CON CỦA NGUYÊN TỔNG BÍ THƯ NÔNG ĐỨC MẠNH

Trong kỳ hợp đảng lần thứ XI còn có một 4C thứ hai cũng được bầu là Ủy viên dự khuyết Trung ương đảng, tạo nên nhiều tai tiếng là Nông Đức Tuấn, con trai của Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh (2001-2010). Cá nhân Nông Đức Mạnh cũng đã là một 4C, con rơi của Hồ Chí Minh với Nông thị Ngát, bí danh là Nông Thị Trưng. Được báo chí hỏi có phải Mạnh là con tư sinh của Hồ Chí Minh hay không, Mạnh đã trả lời lửng lơ «Ở đất nước nầy ai chẳng là con cháu của Bác».

Nông Đức Tuấn sinh năm 1963, người dân tộc Tày, đã đi lao động xuất khẩu tại Đông Đức từ lúc 18 tuổi, lúc ấy Nông Đức Mạnh đã làm Tỉnh ủy tỉnh Bắc Thái. Sở dĩ cha làm quan mà đưa con đi lao động xuất khẩu vì cha muốn đưa con ra ngoài nước để cai nghiện khỏi xấu hổ. Từ khi trở về nước cuối năm 1988 cho đến năm 2008, Tuấn lêu bêu với mấy chức vụ trong Đoàn Thanh niên và Ủy Ban Sắc tộc. Để dọn đường cho con trai làm lãnh tụ, Nông Đức Mạnh «dàn xếp » với Thủ Tướng Dũng cử Nông Đức Tuấn làm Phó tỉnh ủy tỉnh Bắc Giang vào tháng 4 năm 2009. Vận may đến với Tuấn là khi người thanh niên tên Nguyễn Văn Khương bị công an tỉnh Bắc Giang đánh chết và dân chúng xuống đường đòi nợ máu với chánh quyền, Tỉnh ủy Bắc Giang tên Đào Xuân Cẩn bị ép buộc từ chức để nhường ghế Tỉnh ủy cho Tuấn. Khi Đại hội Đảng họp lần thứ XI, tuy Mạnh bị mất chức Tổng Bí Thư nhưng lại gài được cho con vào ghế Ủy viên Trung ương, mở đường cho chế độ cha truyền con nối dòng họ Nông.

CON CỦA CỐ TỔNG BÍ THƯ LÊ DUẨN

Lê Duẩn là người Tổng bí thư cầm quyền lâu nhứt của chế độ Cộng Sản VN. Từ 1960 đến 1976, Lê Duẩn là Bí Thư thứ nhứt của đảng và từ sau 1976, chức vụ được đổi là Tổng bí thư, chức vụ mà Duẩn nắm giữ cho đến khi Duẩn mất năm 1986. Trong lý lịch các nhân vật cao cấp cộng sản, Duẩn cũng như Hồ Chí Minh và nhiều đồng chí được xếp vào hạng vừa dốt, vừa độc tài và đa thê. Vì nhiểu vợ, Duẩn có nhiều con, trong số có nhiều người giữ các chức vụ quan trọng trong chánh phủ và cơ sở kinh tế đầu não. 

Theo Hứa Hoành, thuở sinh thời, Lê Duẩn có ba vợ, bà vợ chính tên Cao thị Khê ở Quảng Trị cưới khi Duẩn 20 tuổi, có em là Cao Xuân Diệm, sau nầy trở nên Trung tướng công an bí danh Dương Thông phụ trách đàn áp văn nghệ sĩ. Bà thứ hai là Đỗ Thị Sảnh. Năm 1942, khi hoạt động trong Nam, Lê Duẩn dùng thủ đoạn cưới thêm bà Thụy Nga, cháu gọi ông Đỗ Hữu Vị (đại úy phi công VN đầu tiên trong quân đội Pháp).

 Ngoài ba bà vợ, Lê Duẩn còn lăng nhăng với nhiều người khác, trong đó có bác sĩ Hồ Thị Nghĩa, con của Hồ Viết Thắng, Phó chủ tịch Ủy ban kế hoạch nhà nước trong thập niên 80. Theo nhà văn Xuân Vũ, bà Thụy Nga đã có người yêu nhưng bị Lê Đức Thọ dàn xếp lừa bà vào một căn lều vắng để Lê Duẩn đến cưỡng hiếp khiến bà phải chịu làm vợ ba. (Hoàng Dung, tr.83, 84)

Trừ Lê Hãn, Giám Đốc Tiếp Liệu cho các trường quân sự nay đã về hưu, các người con khác của Lê Duẩn đảm nhiệm các chức vụ béo bở như sau :

– Lê Kiến Trung : Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Hải quan Thành phố HCM, hiện nay là Phó Tổng Cục An Ninh, Bộ Công An.

– Lê Kiến Thành : là tỷ phú, chủ tịch Hội Đồng Quản Trị Techcombank (1994-2004), chủ tịch Công ty xây dựng và phát triển đô thị và hiện nay là Tổng Giám Đốc Công ty chế biến thực phẩm Thái Minh. Ngoài ra, Thành còn là Phó Chủ Tich thường trực Hội Golf Việt Nam, một loại kinh doanh mang lại nhiều lợi nhuận do các 4C độc quyền nắm giữ. 

Báo chí trong nước hồi tháng 10/2011 xôn xao vì Lê Kiến Trung đã công kích và nói xách mé Bộ Trưởng Bộ Giao Thông Vận Tải là Đinh La Thông khi ông nầy cấm nhân viên của Bộ Giao Thông chơi golf. Bức thư của Lê Kiến Thành có đoạn như sau :«Vấn đề giao thông thấp kém lạc hậu, đầu tư vào giao thông như muối bỏ bể, một con đường quy hoạch cho 30000 dân, giờ phải tải cả triệu người, điều nầy đã tồn tại ngót 30 năm nay. Hẳn ông Bộ Trưởng cũng biết golf mới du nhập vào VN chừng 10-15 năm nay, vậy trước khi có golf điều gì đã ảnh hưởng tới chất lượng lãnh đạo của cán bộ giao thông vận tải. Chơi golf không có tội, lãnh đạo trước hết phải thượng tôn pháp luật» 

Việc tranh chấp giữa ông con của cựu bí thư bố già và ông bộ trưởng khoác lác là điễn hình của chế độ luật rừng và thế lực của 4C tại VN hôm nay.

– Lê Thị Muội : Hoàng hữu Quýnh trong tác phẩm «Tôi bỏ đảng» đã viết về cô gái nầy như sau : Trong số du học sinh VN tại Liên Sô có 3 đứa con của Lê Duẩn, học dốt nhưng lại đài các nhất. Đó là Lê Hản học tại đại học quân sự không quân, Lê thị Hồng và Lê Thị Nga.

Lê thị Hồng có tên thật là Lê Thị Muội. Là con đẻ của anh Ba, nhưng Lê thị Hồng không đồng quan điểm với ba mình. Triết lý sống của Lê thị Hồng là sống phải cho ra sống. Phải được thoải mái về mặt tinh thần. Về vật chất phải có miếng ăn ngon, phải mặc đẹp và phải biết tận hưởng mọi hạnh phúc khi tình yêu đến. Hồng đi nghỉ hè và «hành nghề» tại hải cảng Sochi trên bờ biển Hắc Hải. Không chỉ Hồng làm cái «nghề đó», các nữ sinh Liên Sô cũng vậy (Tôi bỏ đảng, tr.105). Khi về nước, Lê Thị Muội được cử làm Phó Bộ Trưởng bộ Nội Thương.

– Lê Vũ Anh tên thật là Lê Thị Nga: du học ở Nga, cãi lời cha ở lại lấy ông thầy người Nga tên Marlov, sau đó chết vì tai nạn xe cộ. Người ta đồn cái chết nầy do Lê Duẩn ra lịnh giết để giữ uy tín cho ông, (Hoàng Dung, tr. 131) không muốn cho con kết hôn với người ngoại quốc, điều cấm kỵ của đảng, ngay cho người ngoại quốc đó là người Nga. Điều nầy cho thấy việc Nguyễn Tấn Dũng làm sui gia với Việt kiều là một dấu hỏi lớn, phải chăng đảng đã cho phép để tẩu tán tài sản tham nhũng của đồng bọn.

Con của Lê Đức Thọ 

Lê Đức Thọ tên thật là Phan Đình Khải là anh của Phan Đình Đồng (bí danh là Mai Chí Thọ) và Phan Đình Dinh (bí danh là Đinh Đức Thiện). Cả 3 anh em đều không coi trọng dòng họ của tổ tiên, giữ bí danh cho đến khi chết, thậm chí con của Lê Đức Thọ vẫn mang họ Lê là Lê Nam Thắng hiện là Thứ Trưởng thường trực Bộ Thông Tin và Truyền Thông (nghĩa là thứ trưởng số 1, ưu tiên thay Bộ Trưởng). 

Mai Chí Thọ là Đại Tướng, trùm Công An miền Nam sau 1975, còn Đinh Đức Thiện được phong là Thượng Tướng, giữ nhiều chức vụ cao cấp mà chức vụ sau cùng là Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng. Như vậy cha con chú cháu đều nắm giữ các chức vụ then chốt trong đảng và chính phủ.

Lê Đức Thọ và Lê Duẩn có nhiều điểm giống nhau : độc tài, gian xảo, cầm quyền sinh sát trong đảng lâu năm (từ 1948 đến 1986), có vào Nam công tác (Xứ Ủy Nam Bộ 1948-54, chính ủy cuộc đại tấn công miền Nam 1975) và đặc biệt là dâm đảng.

Ông Bùi Tín nói rõ là 2 bà vợ của Lê Đức Thọ ở chung một nhà trên đường Nguyễn Cảnh Chân, Hànội, xưa là biệt thự của viên Hiệu trưởng trường Albert Sarraut, cùng ăn chung một bàn với ông chồng và con cái theo tinh thần Nam-Bắc đề huề. Đúng là một nhà tổ chức đại tài. (Mặt Thật, tr.177).

Trong Lớn lên với đất nước, tác giả Vy Thanh, một cựu đảng viên, sau trở về thành, du học ở Mỹ và trở về nước làm Tổng thơ ký một đại học VNCH xác nhận là Lê Đức Thọ đã dùng những thủ đoạn đê tiện hãm hiếp nữ cán bộ khi làm Xứ Ủy Nam Bộ. «Một đêm chị Thanh đang ngủ, bác Sáu (tức Lê Đức Thọ, mà trong khu gọi là Sáu Búa, chú thích của người viết) mò vô mùng chị. Chị sợ quá tốc mùng chạy la làng, làm lối xóm náo động. Đội bảo vệ bắn súng như Tây tới …» (Vy Thanh, tr. 290)

CON CỦA ĐẠI TƯỚNG NGUYỄN CHÍ THANH

Tên là Nguyễn Chí Vịnh, sinh năm 1957, là con út của tướng Nguyễn Chí Thanh, và là em một cha khác mẹ với Nguyễn Tấn Dũng như lời đồn đãi Dũng là con rơi của Nguyễn Chí Thanh. Vịnh học ở trường đại học quân sự ở Vĩnh Yên, nhưng chưa tốt nghiệp, được tướng Lê Đức Anh, nguyên Bộ trưởng bộ Quốc Phòng rồi sau là Chủ Tịch nước nhận làm con nuôi (cũng giống như trường hợp của Dũng). 

Nguyễn Chí Vịnh kết hôn với con gái của Đặng Vũ Chính, Tổng cục trưởng Tổng Cục 2 là một cơ quan có quyền hành vô hạn và ngân sách khổng lồ bao trùm các hoạt động tình báo, quốc phòng, kinh tế, văn hóa của nước. (Cộng Sản có nhiều Tổng cục (TC) như : TC An Ninh, TC Cảnh Sát, TC Tình Báo, TC Xây Dựng, TC Hậu Cần…Mỗi Tổng Cục có nhiều Cục, thí dụ như TC An Ninh có cục A25 đặc trách về báo chí, Cục A18 kiểm soát ngoại kiều và Việt kiều, Cục A41 đặc trách về tôn giáo, Cục A24 chuyên về kiểm tra, xét hỏi, Cục A42 theo dõi bắt bớ những người chống chế độ. Những Tổng Cục trưởng và Cục trưởng đa số là ủy viên Trung ương đảng hay hàng họ với lãnh đạo cao cấp).

Đặng Vũ Chính đưa cả gia đình vào nắm các chức vụ then chốt của Tổng Cục. Con rể là Nguyễn Chí Vịnh là Tổng Cục Phó, con trai là Đặng Vũ Dũng từ lao động xuất khẩu trở về nước giữ chức Giám đốc Công ty xây dựng Hồng Bàng, hai con gái là Đặng Thị Mai và Đặng Thị Tuyết mang quân hàm đại úy phụ trách công tác mật, vợ gốc là con buôn đảm nhiệm giám đốc Khách sạn Hoàng Đế và chi nhánh công ty Decatour ở miền Trung. Riêng Nguyễn Chí Vịnh, với sự nâng đỡ tận tình của cha vợ và cha nuôi được thăng cấp từ đại úy lên đại tướng trong một thời gian kỷ lục mà trong lịch sử quân đội chưa bao giờ có. Khi Đặng Vũ Chính về hưu, Nguyễn Chí Vịnh lên thay làm Tổng Cục Trưởng.

Bộ ba Đặng Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh, Lê Đức Anh dùng nhiều thủ đoạn tinh vi như thu âm lén điện thoại, chụp ảnh (như khi Lê Khả Phiêu tằng tịu với 2 nữ nhân viên trong phái đoàn công du sang Pháp) để làm áp lực khuynh đảo các ủy viên trong Trung ương đảng hay các đối thủ bởi lẽ tất cả các chóp bu của đảng đều làm điều phi pháp, tham nhũng. Nhóm nầy còn tạo chiến dịch hạ nhục Võ Nguyên Giáp như Giáp là con nuôi của trùm mật thám Pháp Marty, Giáp là tướng bất tài, sợ chết (trong trận Điện Biên Phủ, Giáp nằm trốn trong hầm để cho Nguyễn Chí Thanh và Hoàng Văn Thái chỉ huy, nhưng khi thắng trận thì giành công; khi đánh Mỹ thì sợ bom nên không dám vào Nam), tằng tịu với vợ nhà văn Đào Vũ khi bà nầy đến dạy dương cầm. Sau khi làm mưa làm gió ở Tổng Cục 2, Vịnh được chuyển qua làm Thứ trưởng bộ Quốc Phòng và được đưa vào Ủy viên Trung ương đảng kỳ đại hội XI.

Nguyễn Chí Vịnh còn có người chị tên là Nguyễn Thị Thanh Hà có thời là Phó Cục Trưởng Cục Hàng không Việt Nam.

CON CUA NGUYÊN CHỦ TỊCH LÊ ĐỨC ANH 

Lê Đức Anh hiện là «bố già» trong đảng cộng sản mafia, là người lãnh đạo quân sự và chính trị cộng sản từ hơn nửa thế kỷ qua, cực kỳ thân Trung Quốc. Cả 2 ông đại tướng tên Anh (Lê đức Anh và Lê hồng Anh) đều là hai cây dù của Nguyễn Tấn Dũng (Đức Anh là dù to, Hồng Anh là dù bọc hậu) và cả hai đều xuất thân là phu cạo mủ cao su ở Hớn Quản.

Con trai của Lê Đức Anh là Lê Mạnh Hà hiện là Phó Chủ Tịch Ùy Ban Nhân dân TP HCM. Ông Hà được học bổng Fulbright du học ở Harvard từ 1998 đến 2000. Con dâu là Nguyễn thị Đoan là Phó Chủ tịch nước (thay Trương Mỹ Hoa) từ 2007 đến 2010. Bà Đoan có tiến sĩ ở Bulgarie và có tu nghiệp ở Pháp.

Được vào ủy viên Trung ương đảng là bảo đảm một chức vụ cao cấp, béo bở trong chánh phủ nên cuộc chạy đua vào chức vụ nầy thường diễn ra trong hậu trường với nhiều cuộc liên kết phe nhóm, tranh chấp ác liệt và đòn phép bẩn thỉu. Ngoài các nhân vật vừa kể, trong đại hội đảng lần thứ XI còn có các tân ủy viên sau đây :

– Nguyễn Xuân Anh sinh năm 1976 là con của Nguyễn Văn Chi, Ủy viên Bộ Chính Trị, Trưởng Ban Kiểm Tra trung ương. Nguyễn Xuân Anh nhảy vọt từ Bí thư huyện Liên Châu (Đà Nẳng) đi thẳng vào Trung ương đảng. Tháng 7/2011, Anh được bổ nhiệm Phó chủ tịch UBND Thành phố Đà Nẳng và chắc chẳng bao lâu sẽ là chủ tịch, nắm giữ thành trì của miền Trung.

– Trần Sĩ Thanh, sinh năm 1972. Phó bí thư tỉnh ủy Darlac là cháu của Nguyễn Sinh Hùng, Phó Thủ Tướng (Nguyễn Sinh Hùng là cháu của Hồ Chí Minh). Darlac hiện nay là một vùng béo bở, có nhiều tài nguyên và nhiều cơ sở kỹ nghệ của ngoại quốc đã và sẽ thành lập tại đây.

– Trần Bình Minh : Phó Tổng giám đốc đài truyền hình VN là con trai của Trần Lâm, nguyên Tổng giám đốc đài Tiếng nói VN.

– Nguyễn thị Kim Tuyến, Thứ trưởng Bộ Y tế là cháu ngoại của cố Tổng bí thư Hà Huy Tập.

Điểm đáng lưu ý là Cộng Sản đặt chỗ cho con cháu trước tiên vào ghế số 2 ở mỗi cơ quan bằng các chức vụ như phó (Phó Tổng Cục, Phó Cục, Cu Phó Giám đốc, Phó ban..), hay thứ (Thứ Trưởng) để chờ khi các ông số 1, vốn đang có những dù lộng cũng to để chiếm chỗ khi các ông số 1 về hưu, được điều động đi nơi khác để nhường chỗ, hay bị hất chân khi cái gốc không còn đứng vững.

Những hình thức « truyền ngôi » cho con cháu, hàng họ trong chế độ Cộng Sản

Không thể nào kể hết chi tiết các tên họ những 4C, bởi lẽ chế độ con ông cháu cha cộng sản chằng chịt ngang dọc từ trung ương đến địa phương như những dây leo, hay đúng ra như những tế bào độc hại của bịnh ung thư tràn lan khắp cơ thể, chúng tôi xin tóm tắt tổng quát cách truyền ngôi, tập quyền và tản quyền của hệ thống 4C theo như tổ chức mafia dưới 3 hình thức chính yếu là: tham chính, lập công ty kinh doanh, kết thông gia và bè đảng.

*Tham chính

Thông thường, những người có học, có khả năng thường được đề cử, bổ nhiệm vào các chức vụ chỉ huy trong các cơ quan của đảng hay chính phủ. Ngoài những nhân vật kể trên, cần kể thêm một số nhân vật đang tại chức hay vừa rời chức vụ gần đây.

– Nguyễn Thiện Nhân : Phó thủ tướng là con của y sĩ Đông Dương Nguyễn Thiện Thành, gốc người tỉnh Trà Vinh (có tài liệu ghi là Biên Hòa) một cán bộ cao cấp cộng sản đã tham gia từ phong trào Việt Minh. Mặc dù Nguyễn Thiện Nhân đậu tiến sĩ ở Đông Đức và có tu nghiệp ở Harvard, đã bị mất chức Bộ Trưởng bộ Giáo Dục vì bất tài nhưng lại thích phô trương, đã đưa nền giáo dục VN đến chỗ lạc hậu, nhưng vẫn được tiếp tục lưu nhiệm chức vụ Phó thủ tướng, đúng như lời mỉa mai của giáo sư Hoàng Tụy, một nhà giáo dục được trong nước và ngoại quốc nể trọng : Bộ giáo dục (ý nói ông Nhân) trơ như đá, vững như đồng.

– Phạm Bình Minh : hiện là Bộ Trưởng Bộ ngoại giao, con của Nguyễn Cơ Thạch (tên thật là Phạm Văn Cương), phụ tá cho Lê Đức Thọ trong hội nghị hòa đàm Paris và là Bộ Trưởng bộ ngoại giao sau đó (1980-1991). Có tin là con của Phạm Bình Minh cũng đang du học ngành ngoại giao hi vọng nối nghiệp cha ông.

– Trần Tuấn Anh : nguyên lãnh sự Việt Nam tại Hoa Kỳ (San Francisco) là con của chủ tịch Trần Đức Lương.*

* Lập công ty

Những con cháu cán bộ cao cấp không có khả năng học vấn hay thiếu đạo đức (thực ra ông cha cũng đã thiếu đạo đức, nhưng thành phần các ông con nầy trác táng, lêu lỏng, không thể đảm nhiệm vai trò chỉ huy) thì quay ra kinh doanh, lập công ty. Thực ra những công ty nầy chỉ là bình phong để lợi dụng danh nghĩa của ông cha mà làm giàu phi pháp. Số 4C loại nầy thì kể sao cho hết bởi tràn lan khắp nơi ăn chịu với khắp các cơ quan. Chỉ đan kể vài tên con cháu của các cấp lãnh đạo ở Trung ương đảng.

Con rể của Võ Nguyên Giáp
Tên là Trương Gia Bình, là một tỷ phủ, giám đốc công ty FPT, là một trong những công ty lớn nhất nước cung cấp dịch vụ internet, truyền thông.

Con rơi của cố thủ tướng Võ Văn Kiệt
Võ văn Kiệt tên thật là Phan Văn Hòa, người được xem là cấp tiến, mở đầu cho phong trào đổi mới kinh tế. Nhân nói đến đứa con rơi của Võ văn Kiệt tên Phan Thành Nam, tưởng cần nói qua về đạo đức tồi tệ của các nhà lãnh đạo đảng cộng sản.

Ông Hoàng Dũng, Thư ký Văn phòng Trung Ương đảng đã viết về lai lịch của Phan Thành Nam như sau : Theo cụ Nguyễn Văn Linh kể thì Bộ chính trị lúc bấy giờ biết rằng cụ Hồ gặp những khó khăn và thiếu thốn về tình cảm cá nhân, như chuyện muốn nối lại mối tình với người vợ cũ ở Trung Quốc nhưng bị phản đối, do vậy bộ Chính trị có bí mật sắp xếp nhiều người phụ nữ khác để chăm sóc và phục vụ cụ Hồ về mặt sinh hoạt tình dục. Đặc biệt từ thuở còn thanh niên, cụ Hồ đã có một mối tình rất đẹp với một người con gái miền Nam (sự thật nầy đã được nhà văn Sơn Tùng sưu tầm và công bố trong bài viết «Đi tìm Út Huệ»). Biết thế nên lúc nầy Nguyễn Văn Linh là Bí thư Trung ương cục miền Nam phải kín đáo tìm kiếm trong số những cán bộ, du kích miền Nam một số cô gái còn trẻ đẹp để đưa ra miền Bắc phục vụ cụ Hồ và các vị trong bộ Chính trị (đứng đầu là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ). Thời điểm đó thì Võ Văn Kiệt đang là ủy viên Trung ương cục được cụ Linh tin tưởng tuyệt đối và giao cho trực tiếp phụ trách nhiệm vụ đặc biệt nầy. Trong số vài cô gái tuyển lựa được lúc đó chuẩn bị bố trí bí mật đưa ra miền Bắc có một cô còn trẻ và sắc sảo họ Phan. Giữa lúc đó thì tình hình chiến sự đang diễn ra khá ác liệt nên không thể đưa các cô đi ngay được và rồi không hiểu thế nào mà ông Kiệt lại quan hệ dan díu với chính cô gái họ Phan kia. Đến lúc sự việc vỡ lỡ thì cô gái đã có thai mấy tháng, thế là cô ta phải ở lại và cái bào thai đó chính là Phan Thành Nam.

Phan Thanh Nam hiện nay là một tỷ phú đỏ, Tổng Giám Đốc Công Ty quốc doanh Tracodi, chuyên về «xuất khẩu lao động», xuất cảng hàng hóa, xây cất và du lịch.

Điều cần nói thêm là ông Kiệt cũng có chính thức 2 vợ : bà vợ cả tên là Trần Kim Anh và 3 đứa con đã chết trong chiến tranh, chỉ còn lại đứa con gái tên là Võ Hiền Dư. Ông lấy vợ kế là Phan Lương Cầm nổi tiếng tham nhũng được các công ty đặt tên là Bà Mười Cầm vì tất cả các dự án đầu tư đều phải đóng «hụi chết » cho bà ít nhứt 10%.

Con của nguyên thủ tướng Phan Văn Khải

Tên là Phan văn Tỵ tục danh là Hoàng Tỵ là một tay du đãng chọc trời khuấy nước, có lần vì tranh giành địa bàn buôn lậu đã bắn chết Phạm Văn Hưng là sĩ quan công an, con của Phạm Thế Duyệt cũng là đảng viên trong Trung ương đảng, chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc. Về kinh doanh, Hoàng Tỵ lợi dụng thế lực của cha và của các đồng chí của cha, nhập cảng lậu xe hơi cũ rồi tân trang lại bán sang Trung Đông, nhập cảng xe đạp mới nguyên chiếc từ Thái Lan, Singapore đem tháo ra từng bộ phận rồi lắp ráp lại (bởi luật VN lúc ấy chỉ cho phép bán xe đạp lắp ráp ở VN), bán với giá gấp đôi gấp ba. Hoàng Tỵ cũng là chủ nhân của hai đại khách sạn Hoàng Gia và Planet ở Saigon và HàNội, cho du khách ở tại hai khách sạn nầy được ưu tiên khỏi bị xét hỏi khi đến và khi rời phi trường. Nhờ tất cá mánh khoé và thế lực, Hoàng Tỵ cũng là một tỷ phú.

Con của Tướng Phùng Quang Thanh, Bộ Trưởng bộ Quốc Phòng

Phùng Quang Thanh xuất thân là một bộ đội không có học thức nhưng nhờ phe cánh thân Trung Cộng trong đảng nên được phong quân hàm đại tướng, giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng từ nhiều năm nay. Con trai của Phùng Quang Thanh là Phùng Quang Hải, lý lịch cũng không ghi học lực và trường đào tạo, nhưng mang cấp bậc Thượng tá, là Tổng giám đốc Công ty xây dựng 319 là một công ty quốc doanh bao gồm hơn mươi công ty hoạt động trong lãnh vực xây cất, cung cấp vật dụng cho quân đội và các cơ quan chính phủ trên địa bàn khắp nước. Đây là một nguồn lợi khổng lồ cho gia đình họ Phùng và các phe cánh trong đảng để tham nhũng và độc quyền các lãnh vực béo bở.

Nếu cần phải kể thêm thành tích của những 4C vì ăn chia không đồng đều bị tố cáo hay bị ra tòa, hay bị làm vật tế thần thì có mấy vụ gần đây như Mai Văn Dậu, Thứ trưởng Bộ Thương Mại bị ra tòa cùng với con là Mai Thanh Hải vì tham nhũng trong việc xuất nhập cảng, Đoàn Văn Kiểm, chủ tịch Hội đồng Quản Trị Tập đoàn Than – Khoáng sản bị bãi chức vì cho phép em là Đoàn Duy Thức khai thác quặng mỏ trái phép, Phạm Thanh Bình, chủ tịch Hội Đồng Quản trị Tổng đoàn Công nghiệp Tàu Thủy VN bị bắt giam vì bổ nhiệm con trai là Phạm Bình Minh (một Bình Minh khác, không phải là Bình Minh con Nguyễn cơ Thạch) vào công ty Vinashin, Đỗ Trung Tá, Bộ trưởng bộ Bưu Chính Viễn Thông, bị cảnh cáo vì cho con rể là Hoàng Minh gian lận trong việc trúng thầu.

Đảng Cộng Sản Việt Nam cai trị bằng bạo lực và áp dụng luật mafia ngay trong hàng ngũ đảng viên cao cấp của họ theo kiểu mạnh được yếu thua. Trong sự phá sản hàng tỷ mỹ kim của công ty Vinashin, người chịu trách nhiệm là Nguyễn Tấn Dũng thì không hề hấn gì trong khi bộ trưởng Phạm Thanh Bình bị bắt giam vì một sự bổ nhiệm. Vụ ăn hoa hồng trong việc in giấy bạc polymer ở Úc (12 triệu Úc kim) liên hệ đến nguyên Thống đốc ngân hàng Lê đức Thúy đã có bằng chứng rõ ràng thì chẳng ai bị tù tội.

Lãnh đạo Việt Nam hôm nay làm trò hề và gây ô nhục cho đất nước mà không biết nhục. Vũ Văn Hiến, Ủy viên trung ương đảng, Tổng giám đốc Truyền hình VN gởi con gái tên Kiều Trinh sang Thụy Điển tu nghiệp bị cảnh sát Thụy Điển bắt vì ăn cắp trong siêu thị, bị báo chí trong nước phanh phui nhưng vẫn được bổ nhiệm làm Trưởng phòng Văn hóa – Du Lịch của đài truyền hình, chưa kể Hiến đưa bè đảng vào cơ quan để tham nhũng, bị nhân viên các cấp tố cáo nhưng vẫn bình chân như vại.

*Kết thông gia và bè đảng

Người Việt Nam ta có câu Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, những cán bộ cao cấp gian manh thường tìm gần nhau để hợp quần gây sức mạnh trong công cuộc trấn áp, bốc lộ lương dân. Những cuộc liên kết giữa các cán bộ qua các cuộc hôn nhân là một hình thức lưu chuyển quyền hành và tham nhũng theo hàng ngang và hàng chéo đến độ hệ thống tham nhũng Việt Nam hôm nay là những loại ung thư đang tàn phá một cơ thể chỉ chờ ngày bị tiêu hủy toàn diện. Dĩ nhiên không sao kể hết loại liên kết nầy, chỉ cần đan kể vài thông gia gần đây tạo nhiều tai tiếng to lớn.

Tại Việt Nam, nhắc đến tướng công an Nguyễn Đức Nhanh là người dân kinh sợ và khinh bỉ vì chánh sách đàn áp lương dân và tham nhũng của tên trùm công an nầy (đàn áp giáo dân Thái Hà). Nhanh đảm nhiệm 2 chức vụ : Phó Tổng cục trưởng Tổng cục 2 (tổng cục 1 : lo về tình báo hải ngoại, tổng cục 2 : lo về an ninh quốc nội) kiêm Giám Đốc Công An TP HàNội. Nguyễn Đức Nhanh kết thông gia với Nguyễn Thanh Sơn, Thứ trưởng bộ ngoại giao, Chủ tịch Ủy Ban nhà nước về người VN ở nước ngoài. Như vậy hai gia đình thông gia nầy đảm nhiệm vai trò chiến lược của đảng Cộng Sản và chánh phủ Việt Nam.

Trương Mỹ Hoa, Phó chủ tịch Quốc hội (2002-2007) là con của Trương Văn Đẩu, Tỉnh ủy viên Gò Công (cũng gốc là phu cạo mủ cao su) có em là Trương thị Hiền, Hiệu trưởng trường Cán bộ TPHCM, kết hôn với Lê Thanh Hải, Ủy Viên Trung ương đảng, Thành ủy TP Hồ Chí Minh. Lê Thanh Hải làm sui với Huỳnh Ngọc Sỹ nổi tiếng trong vụ tham nhũng xây xa lộ Đông Tây nối liền từ Bình Chánh đến Saigon, qua Thủ Thiêm chạy đến Cát Lái trên đường về miền Tây. Xa lộ nầy do Nhật viện trợ và giao cho công ty Nhật PCI xây cất, Huỳnh Ngọc Sỹ làm quản lý. Lúc đầu, Sỹ đòi hối lộ 15%, sau sụt xuống 10% và đã nhận 2,6 triệu MK thì bị báo chí Nhật phanh phui, 4 người đại diện công ty Nhật bị Nhật bắt giữ vì đưa hối lộ. Chánh phủ Nhật đòi Việt Nam phải có biện pháp chế tài với người nhận hối lộ là Huỳnh ngọc Sỹ nhưng VN vẫn binh vực Sỹ khiến Nhật trả đũa bằng cách ngưng tất cả tiền cho vay ODA và đòi lại 30 triệu tiền viện trợ, điều hiếm có trong lịch sử bang giao quốc tế. 

Trước áp lực của các quốc gia viện trợ cho VN và Mỹ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đành phải miễn cưỡng đưa Sỹ ra tòa với án chung than khổ sai, sau giảm xuống 20 năm tù. Thì ra Sỹ chỉ là vật tế thần của một tập đoàn tham nhũng, mà những án vụ tham nhũng như thế chỉ là hạn hữu trong số ngàn ngàn vụ tham nhũng chẳng bao giờ bị phanh phui bởi được bao che từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài và 700 cơ quan truyền thông trong nước chỉ là bầy két lập lại luận điệu của nhà cầm quyền. Tuy nhiên, thỉnh thoảng vẫn có một vài ngoại lệ khi báo chí đăng tin tham nhũng liên quan đến 4C, hoặc vì nhà báo có lương tâm, hoặc vì thanh toán nội bộ bởi chia phần không sòng phẳng. Thí dụ như trường hợp khi báo chí đăng tin tiền in của công ty TechBank của Lê Đức Minh là con của nguyên thống đốc ngân hàng Lê Đức Thúy không có phẩm chất thì hai tờ báo Thời Đại và Công Lý bị đình bản, và 6 tờ báo khác như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, An Ninh Thủ Đô, Công Luận…bị cảnh cáo.

Về chuyện nhà báo bị khủng bố vì dám đá động đến việc tham nhũng của các 4C, tưởng cũng nên nhắc lại một vụ tham nhũng lớn bị phanh phui cách đây 5 năm, nhưng vụ án đã bị ém nhẹm vì liên quan đến các thủ phạm ở chóp bu, nhưng hai phó tổng biên tập của báo Thanh Niên và Tuổi Trẻ bị bắt giam và 5 phóng viên bị thu hồi thẻ hành nghề vì tội phá hoại an ninh quốc gia. Vụ tham nhũng bị vở lở khi công an bắt được 2 cầu thủ cá độ ngày 13/12/2005 và cuộc điều tra cho biết Bùi Tiến Dũng, Tổng Giám ĐốcĐơn vị Quản Lý các dự án PMU-18 đã chi tiêu 2,6 triệu trong trò chơi cờ bạc nầy. PMU-18 (Project Management Unit) trực thuộc bộ Giao Thông Vận Tải (GTVT) là cơ quan phụ trách thực hiện xây cất các dự án cầu đường với số vốn 20 tỷ gồm ngân sách quốc gia và quỹ tài trợ ODA của Nhật, Tây Âu và Ngân hàng Quốc Tế (World Bank). 

Bùi Tiến Dũng là con trai của Bùi Thiện Ngộ, Bộ trưởng Bộ Công An, cấu kết với Nguyễn Việt Tiến (Thứ trưởng Bộ GTVT), Phạm Tiến Dũng (Trưởng phòng tài chánh), rể của Nguyễn Việt Tiến cùng với Phạm Hoàng Hải, rể của Nông Đức Mạnh, Nguyễn Việt Bắc, rể của Đào Đình Binh (Bộ trưởng Bộ GTVT) cùng với nhiều bạn bè hàng họ lập ra hàng chục công ty để trúng thầu dù các công ty nầy không khả năng và không vốn. 

Tài sản tham nhũng của Nguyễn Việt Tiến, Phạm Hoàng Hải, Nguyễn Việt Bắc, mỗi người trên trăm triệu MK. Báo Thanh Niên tiết lộ là có ít nhất 40 quan chức cao cấp liên quan đến vụ tham những khổng lồ nầy. Bị gọi ra thẩm vấn trước tòa án, Bộ trưởng Đặng Đình Binh tuyên bố «Tôi thuộc diện Trung ương quản lý» có nghĩa là chỉ trả lời với trung ương đảng mà thôi. Ngoài ra, 2 đảng viên cao cấp là tướng Cao ngọc Oánh, Cục trưởng Cục điều tra C15, Phạm Xuân Quấc, Cục trưởng Cục điều tra C14 cũng bị dính liếu, nhưng được miễn truy tố, rốt cuộc chỉ có Bùi Tiến Dũng và các « tép riêu» bị lãnh án.

Lâm Văn Bé