Jun 27, 2014

Thân phận ngư dân Việt Nam, trách nhiệm ở ai?

TAREMPA, INDONESIA (NV) -80 ngư dân Việt Nam, bị cáo buộc tội đánh cá bất hợp pháp, và giam giữ tại đảo Tarempa, thuộc quần đảo Anambas, Indonesia, hơn một tháng trời, mà không ai hay biết, không ai can thiệp, nếu không có một buổi gặp mặt rất tình cờ.
Bốn trong số gần 80 ngư dân Việt Nam bị cáo buộc tội đánh cá bất hợp pháp, và giam giữ tại đảo Tarempa, thuộc quần đảo Anambas, Indonesia hơn một tháng trời, mà không ai hay biết,can thiệp. (Hình: Hà Giang/Người Việt)

Báo chí Indonesia gọi họ là kẻ trộm (thieves).
Thân nhân thì chỉ biết thuyền họ đã trổ neo đi biền biệt từ ngày mùng 6 Tết âm lịch, mà không biết bao giờ mới về.
Nơi giam giữ họ, dù đã hơn một tháng nay, vẫn chưa lập xong danh sách, không báo cho cơ quan thẩm quyền liên quan biết, không báo tin cho bộ ngoại giao bạn, từ chối không cho ai gặp họ, và yêu cầu báo chí nước ngoài đừng đưa tin.
Đó là thân phận của gần 80 ngư dân Việt Nam, bị cáo buộc tội đánh cá bất hợp pháp, và giam giữ tại đảo Tarempa, thuộc quần đảo Anambas, Indonesia.
Và có lẽ cho đến giờ, cũng không ai biết đến hoàn cảnh của họ, nếu không có buổi gặp mặt rất tình cờ giữa một số người trong nhóm ngư dân này, với hai phóng viên nhật báo Người Việt và Little Sài Gòn TV, hôm 26 tháng Tư vừa qua.
Gặp nhau tình cờ
Buổi trưa cuối cùng ở Indonesia, mọi công việc xem như hoàn tất, phái đoàn đi thăm tượng đài thuyền nhân Việt Nam ở đảo Kuku chúng tôi lang thang trên thị trấn Terampa, xem sinh hoạt phố chợ của dân bản xứ.
Vừa dừng chân trước cửa Bộ Du Lịch, chúng tôi nghe léo nhéo tiếng của một số người Việt Nam đang đi xin ăn, xin tiền.
Gặp đồng hương trên xứ lạ, họ mừng rỡ lao nhao. Những khuôn lo âu sạm nắng chợt sáng lên niềm hy vọng. Họ vừa đua nhau nói, vừa không quên rảo mắt nhìn quanh như e dè, sợ hãi.
“Anh chị làm ơn báo dùm cho sứ quán giúp dùm anh chị ơi, ở đây lâu rồi mà giờ không biết sao nữa.”
“ Em ba bốn đưa con ở nhà không có ai nuôi anh chị ơi.”
“Coi chừng police nghe, nó gặp nó 'goánh' chết luôn.” Một người cảnh giác.
“Tụi em Sáu tàu đánh cá Kiên Giang. Tàu đi đánh cá lạc vùng, mình có hợp đồng với đảo này mà lạc đảo bên kia, họ bắt hết, 80 người lận. Chủ tàu chưa có tiền để chuộc về. Tụi em nằm đây từ bữa tới giờ, chắc bị bỏ luôn rồi.”
Trả lời câu hỏi có được tòa đại sứ Việt Nam ở đây giúp đỡ không, họ đua nhau trả lời:
“Chưa giúp gì đâu chị ơi, có hay đâu mà giúp.”
“Nó đâu có cho ai hay, vậy mới nói phải nhờ anh chị đăng báo hết lên, cho Tòa Đại Sứ Việt Nam biết.”
Theo lời kể, họ là sáu trong số 80 ngư dân Việt Nam, quê ở xóm Lò Heo, Rạch Giá, đi đánh cá lạc vào quần đảo Nam Dương, bị Hải Quân Indonesia bắt đưa về giam tại nhà giam của Hải Quân Tarempa đã hơn một tháng nay. Mỗi ngày sáu người trong nhóm được thay phiên nhau xuống chợ đi kiếm việc làm công, nhặt rau cỏ để kiếm ăn. Tối ăn xong thì phải trở về nhà tù.
“Mà nhà tù lộ thiên muỗi cắn muốn chết chị ơi. Ăn thì bữa đói bữa no, gần hết gạo rồi.”
Vẫn theo lời kể của họ, sáu con thuyền đi từ Kiên Giang, khi bị bắt thì bị hút hết xăng, tịch thu hết cá, chỉ chừa lại một ít cá khô để ăn. Gạo mang đi chắc chỉ hơn một tuần nữa là cạn.
Được hỏi người nhà biết chưa, một người trả lời:
“Điện thoại bị tịch thu mất hết tiêu rồi, đâu gọi được. Mới lén mượn được của mấy người Thái Lan ở tù chung gọi được về nhà. Nhưng nhà cũng đâu biết làm sao mà báo cho Tòa Đại Sứ được. Vậy mới nhờ anh chị giúp.”
Vừa thấy có bóng dáng cảnh sát, sáu người thoáng một cái đã biến đi đâu mất.
Họ đi rồi, chúng tôi quyết định tách riêng phái đoàn lần mò kiếm đường đi xuống cảng tìm những người ngư phủ tội nghiệp.
Chúng tôi vừa đi vừa hỏi đường. Hôm ấy không có người thông dịch đi cùng,  gặp ai chúng tôi cũng cứ chỉ tay rồi hỏi: “Vietnamese boat? Vietnamese boat?”
Một trong sáu tàu đánh cá Việt Nam đến từ Kiên Giang bị Hải Quân Tarempa bắt giữ vào đầu tháng Tư vừa qua. (Hình: Hà Giang/Người Việt)
Nhờ báo Tòa Đại Sứ biết
Sự tử tế vượt mọi biên giới của ngôn ngữ. Những người dân Indo tốt bụng lần lượt gật đầu, làm dấu tay, chỉ chúng tôi đi về một hướng. Cứ vừa đi vừa hỏi, mãi rồi chúng tôi cũng ra đến cảng. Từ xa đã thấy mấy chiếc thuyền lớn nằm yên trên bãi.
“Kìa, thuyền Việt Nam kìa.”
Vừa nghe tiếng chúng tôi, một người thanh niên Việt Nam ló mặt ra khỏi khung thuyền. Đến gần hơn chúng tôi gặp được thêm bốn ngư dân nữa. Lại tay bắt mặt mừng, lại chuyện trò kể lể.
Những thanh niên ở đây mặt đầy nét lo âu và khắc khổ hơn những người chúng tôi gặp lúc nãy. Một người mặt còn sưng húp và những vết đỏ tấy còn nhìn thấy rõ trên chiếc ngực trần sạm nắng.
“Nó hành hạ, đau lắm chị ơi. Trời mưa 6 giờ sáng nó bắt dậy, nó bắt lau sàn. Nhưng phải lăn người lên sàn lấy người lau, chứ không được lấy khăn. Nó lấy tay đập vào mặt, lấy chân dạng vào ngực, chịu gì nổi.”
Một người giải thích là có sáu chiếc thuyền Kiên Giang bị bắt, nhưng ba chiếc đưa đi đâu không ai biết. Ba chiếc còn lại, mỗi tàu ban ngày được ở lại 3 người để nấu cơm. Trưa và chiều mang cơm lên chỗ giam tù ăn chung. Cơm thì thường ăn với cá khô, hoặc với rau cỏ mấy người đi lao động mà chúng tôi vừa gặp mang về. Tối tất cả cùng về nhà giam ngủ.
Trả lời câu hỏi là sao từ Kiên Giang phải đi đánh cá xa xôi tận nơi xứ người để bị bắt, họ trả lời:
“Không đi xa có cá đâu mà bắt. Biển mình giờ khó bắt cá lắm.”
“Không bắt cá biết làm gì mà ăn hả cô? Nghe chủ ghe nói có hợp đồng đánh cá, kêu mình đi, bảo đảm là không bị bắt, tụi con mới đi, chứ biết bị bắt kiểu này ai mà đi.”
Vừa hỏi han được vài câu, lại có bóng cảnh sát. Vừa thấy họ, bốn ngư dân thụt ngay vào trong thuyền, không quên dặn với theo:

“Nhờ anh chị báo về Việt Nam giùm...”
Viên cảnh sát (không muốn xưng tên) bảo chúng tôi là "không được tiếp xúc với tù nhân," và “muốn gì thì đến sở di trú mà hỏi.”
Khi ông ta bỏ đi rồi, bốn người ngư phủ lại mon men đến gần khoang. Hai anh em chúng tôi dốc túi biếu vội họ một chút tiền rồi  đi vì sợ họ bị liên lụy. Những ánh mắt trông theo của họ, có lẽ sẽ còn ám ảnh chúng tôi lâu lắm.
Tiếp xúc với các giới chức
Vừa rời khỏi cảng, chúng tôi may mắn gặp vài người bạn Indo mới quen ở Bộ Du Lịch, và nhờ họ đưa ngay đến Sở Di Trú Terampa.
Ông Rizki Ramadhan, Subsection Immigration Superviser của sở Di Trú Tarempa tiếp chúng tôi khá lịch sự. Bằng một thứ tiếng Anh khá sõi, ông giải thích là có biết việc Hải Quân bắt họ hơn một tháng nay rồi, nhưng cho đến giờ, Hải Quân vẫn chưa gửi thông báo chính thức gì cho phía ông.
Phóng viên nhật báo Người Việt tiếp xúc với Sở Di Trú Tarempa, Indonesia để hỏi về tình trạng 80 ngư dân Việt Nam bị Indonesia bắt giữ. (Hình: Đinh Xuân Thái/Little Sài Gòn TV)

“Hải Quân đang quản thúc họ. Chúng tôi có hỏi về tình trạng của họ mấy lần, nhưng cho đến giờ cũng chưa nhận được câu trả lời hay công văn gì.” Ông nói.
Terampa là một thị trấn nhỏ đi vài phút là hết. Chúng tôi biết bộ Hải Quân cũng chỉ cách mấy con đường. Tôi nói với ông Ramadhan: "hai bên gần nhau lắm mà"
“Không có tin là không có tin.” Ông nói.

Thấy tôi trầm ngâm, ông nói bằng một giọng đầy thông cảm:
“Lý do một phần là cũng vì sở di trú chúng tôi chưa có nhà giam.”
Rồi ông nói thêm, như mách nước:
“Trước đây cũng có trường hợp các ngư phủ Thái Lan giống như vậy. Họ giữ lâu lắm. May nhờ Tòa Đại Sứ Thái Lan liên lạc hỏi, rồi họ mới đưa danh sách qua đây.”
Đến Bộ Hải Quân chúng tôi phải chờ mãi mới được gặp viên chức chịu trách nhiệm về số ngư dân Việt Nam.
“Viên chức chịu trách nhiệm” chính là ông cảnh sát không xưng tên lúc nãy. Người bạn ở Bộ Du Lịch giải thích với chúng tôi là ở Indonesia, Hải Quân có phận sự giữ an ninh cho các hòn đảo.
Tiếp xúc với chúng tôi qua lời thông dịch viên, điều đầu tiên viên chức Hải Quân này yêu cầu là “không phổ biến tin này.”
Chúng tôi bầy tỏ quan tâm là có ngư dân khai bị đánh. Yêu cầu xin được gặp, dù không được tiếp xúc, mà chỉ nhìn từ xa những ngư dân đang bị bắt giữ của chúng tôi bị khước từ với lý do là “đang trong vòng điều tra.”
Mọi câu hỏi khác như có danh sách không, có trao danh sách cho Sở Di Trú không, và có báo cho Tòa Đại Sứ Việt Nam không, đều được trả lời là “không, còn trong vòng điều tra.”
Dù khước từ mọi yêu cầu của chúng tôi, nhưng Bộ Hải Quân ba lần yêu cầu chúng tôi đừng đưa tin, đổi lại, họ hứa sẽ kết thúc việc điều tra trong vòng "nhanh nhất có thể được."
Chúng tôi để lại danh thiếp, yêu cầu commander của chi nhánh Hải Quân ở Tarempa liên lạc khi có thêm tin tức, và hứa sẽ chờ họ hai tuần lễ trước khi đưa tin.

Trở về Hoa Kỳ, chúng tôi chia nhau tìm thì không thấy báo chí Việt Nam đưa tin.
Một tờ báo ở Indonesia đưa mẩu tin nhỏ cho biết Hải Quân Tarempa vào đầu tháng Tư, đã bắt được 6 tầu Việt Nam, nặng từ 45 đến 80 tấn,  tịch thu 1,700 pounds cá, giam giữ 80 ngư phủ, và gọi những ngư phủ này là kẻ đánh cắp.
Chúng tôi chia nhau người liên lạc với Tổng Lãnh Sự Nguyễn Bá Hùng ở San Francisco, người liên lạc với Tòa Đại Sứ Việt Nam ở Jakarta, Indonesia, nhờ can thiệp.
Tổng Lãnh Sự Nguyễn Bá Hùng phúc đáp ngay, cho biết đã liên lạc với ông Nguyễn Hữu Tráng, Cục trưởng Cục Lãnh sự của Bộ Ngoại giao Việt Nam nhờ can thiệp và được ông Tráng trả lời là “Bộ Ngoại Giao Việt Nam đang xử lý quyết liệt.”
Trước khi báo lên khuôn, chúng tôi nhận được phúc đáp của Tòa Đại Sứ Việt Nam ở Jakarta, Indonesia, rằng: “đang liên hệ với các cơ quan chức năng của Indonesia để xác minh và giải quyết,” và “sẽ cập nhật khi có thông tin từ cơ quan chức năng của Indonesia.”
Không ai rõ “xử lý quyết liệt” của Bộ Ngoại Giao và “liên hệ để xác minh và giải quyết' của Tòa Đại Sứ Việt Nam ở Jakarta sẽ mang đến kết quả gì cho các ngư dân, và kết quả nhanh hay chậm.
Chỉ biết tình trạng ngư dân Việt Nam bị bắt về đánh cá bất hợp pháp ở các nước láng giềng thường xuyên xẩy ra. Riêng tại Indonesia, gần như mỗi tháng báo Indonesia đều đưa tin có vài thuyền Việt Nam đánh cá và vài chục ngư dân Việt Nam bị bắt.
Đọc báo thì chỉ biết tin như thế. Nhưng không ai biết họ được giam giữ trong hoàn cảnh nào, có là nạn nhân của những vụ tham nhũng, tống tiền hay không.
Vì đâu mà các ngư dân Việt Nam phải phiêu lưu mạo hiểm đi vào tình trạng sống chết không ai hay biết như vậy?
Vì biển Việt Nam hết cá do tình trạng “overfishing” đã được nhiều chuyên gia đề cập từ mấy thập niên nay? Vì họ không hiểu rõ luật lệ đánh cá của các nước láng giềng? Vì họ bị chủ thuyền lừa gạt? Hay vì chính quyền Việt Nam chưa bảo vệ đúng mức ngư dân của mình?
Đó là những câu hỏi cần được giới hữu trách trả lời. Vấn đề nằm ở chỗ ai là giới hữu trách.

Liên lạc tác giả: Hagiang@ngươi-viet.com

Jun 23, 2014

Cuộc chiến ngàn năm Thuốc Nam -Thuốc Bắc

Cuộc chiến ngàn năm THUỐC NAM-THUỐC BẮC
Hoàng Tuấn Phổ 
Một hiệu thuốc của người Việt
Mỗi dân tộc, để sinh tồn, phải có nền y học dân tộc riêng của mình. Truyền thuyết Trung Hoa nói vua Thần Nông mỗi ngày nếm 100 thứ cây cỏ, trong đó có 70 thứ độc, nhiều lần ông bị ngộ độc suýt chết, nhưng cũng nhờ có loại cây cỏ giải độc nên thoát chết. 


Bởi vậy, vua Thần Nông đã tìm ra thuốc chữa bệnh. Việt Nam cũng có vua Thần Nông, vua của nghề nông, không phải một mà nhiều ông, rất nhiều ông. Thần Nông Việt Nam không liều mạng như Thần Nông Trung Quốc. Ông thông minh hơn, biết dựa vào thiên nhiên, nhờ vào động vật sống trong thiên nhiên để tìm ra cây lành, cỏ độc. Con chó mẹ sau khi đẻ con ra vườn tìm ăn một thứ lá cây, thành tên chó đẻ, một vị thuốc quý. Con khỉ trên rừng bị tên bắn, hái lá đắp vào vết thương, người ta trông thấy, dựa vào đặc điểm đặt tên bồ cu vẽ. Trâu bò gặm cỏ trên đồng, loài dê ăn lá trên núi, cỏ lá gì chúng ăn là lành, thứ gì chúng thà nhịn đói chứ không đụng mõm là độc, v.v… Từ những kiến thức cơ bản ấy, người xưa không ngừng tìm tòi, thử nghiệm, tổng kết, dân gian truyền miệng, có chữ  thì ghi chép.
Lục địa Trung Quốc rộng lớn, núi cao, rừng rậm, cây cỏ nhiều. Trên cơ sở đó, dược liệu họ phong phú và phát triển. Nhưng khí hậu Trung Quốc tùy từng miền mà có khô hanh, lạnh giá, băng tuyết, cây cỏ không tươi tốt bằng phương Nam bốn mùa xanh màu xanh sự sống. Bản chất người Trung Quốc từ ngàn xưa, thích chiếm đoạt đất đai và ham làm giàu bằng nhiều thủ đoạn. Trẻ em Việt Nam cũng biết điều này, thường hay hát: “Ngộ bên Tàu là ngộ mới sang, sang Nam Việt bán buôn làm giàu…”. Một trong những con đường làm giàu của họ là thuốc Bắc. Thời Trần, chợ Cửa Đông lớn nhất kinh thành, riêng hẳn một phố Thuốc Bắc. Nhiều hiệu bán thuốc Bắc có cả thầy thuốc Bắc. Từ kinh thành, thuốc Bắc tỏa đi nhiều ngả đường đến các thị trấn, thắt chặt dây thòng lọng vào cổ thuốc Nam. 
 
Thu hái thuốc Nam trong vườn nhà
Nhưng thuốc Nam không dễ chết. Ngược lại, có sức sống mãnh liệt riêng của nó. Đối diện với phố Thuốc Bắc chợ Cửa Đông là những hàng mẹt, thúng, mủng, chiếu bày la liệt những cây, lá, củ, quả… có tác dụng chữa bệnh, nhà nông thu hái từ rừng núi Hải Đông lên, Sơn Tây xuống. Nhiều dược vị Trung Quốc không có hoặc không tốt bằng, giá cả lại rất rẻ. Tại đây thương trường cũng là chiến trường. Người Trung Quốc mua dược liệu Việt Nam là tiêu thụ hàng hóa cho Việt Nam. Nhưng họ đem về nước sơ chế rồi lại bán sang nước ta giá đắt gấp nhiều lần với cái tên thuốc Bắc. Chỉ có thể dẫn ra một ít ví dụ: binh lang (hạt cau già), trần bì (vỏ quýt rừng), sinh khương (gừng sống), can khương (gừng phơi râm mát), khiếm thực (củ súng), liên nhục (hạt sen), long nhãn (cùi nhãn) v.v… Đại hồi mọc ở một số tỉnh biên giới Trung Việt, nhưng đại hồi chỉ mọc nhiều ở Lạng Sơn và chất lượng tốt nhất. Củ mài Việt Nam - Trung Quốc đều có, riêng củ mài Bắc Ninh tốt nổi tiếng (Hoài sơn). Trung Quốc trồng nhiều ở Quảng Tây, Quảng Đông giáp giới Việt Nam, cho quế nhục, quế bì, quế chi làm thuốc nhưng không tốt bằng quế Việt Nam, đặc biệt là quế Thanh Hoa (Trịnh Vạn) rồi đến Nghệ An (Quỳ Châu). Cho đến lộc nhung, gạc nai,… cũng vậy.
Năm 43, tướng xâm lược Mã Viện tiến vào Cửu Chân (Thanh Hóa) vơ vét trống đồng tiêu diệt linh khí phương Nam, linh hồn Lạc Việt. Mã Viện tiêu diệt nền văn hóa Việt Nam, không quên chất hàng xe đầy cây bo bo (hạt làm thuốc) Trung Quốc gọi là ý dĩ chở về nước. Những năm tháng Trung Quốc đô hộ Việt Nam, bắt dân ta phải tiến cống sừng tê, ngà voi, ngọc trai,… đều có tác dụng làm thuốc trị bệnh vô cùng quý hiếm…
Đời vua Trần Hiến tông đêm trăng trung thu chơi thuyền Hồ Tây, Thái tử Vượng ngã xuống nước, chỉ còn thoi thóp  thở. Vua triệu thầy thuốc giỏi Trâu Canh đến chữa. Trâu Canh là con Trâu Tôn, dòng dõi đại y sư Trâu Diễn. Trâu Tôn vào quân đội phục vụ quân xâm lược Nguyên Mông sang nước ta cướp phá. Quân Nguyên Mông đại bại, Trâu Tôn bị bắt, vua Trần tha tội vì y biết nghề thuốc. Trâu Canh nối nghiệp cha làm thuốc, rất được tín nhiệm. Đáng lẽ chỉ cần châm vào huyệt nhân trungmệnh môn hỏa, thái tử Vượng tỉnh lại ngay và khỏe mạnh bình thường. Nhưng Trâu Canh châm vào hiểm huyệt khiến thái tử Vượng lớn lên bị liệt dương, không thể sinh con nối dõi. Vua Hiến tông chỉ có Vượng là con trai, tất anh em trong họ tranh giành ngôi báu, tạo cơ hội để nhà Nguyên phát binh mã kéo sang đánh lấy Đại Việt dễ như thò tay vào túi lấy đồ vật.
Chị ruột thái tử Vượng, công chúa Thiên Ninh rất thông minh và quyết đoán, bằng mọi cách muốn em trai chữa khỏi bệnh liệt dương. Vua Hiến tông sai Trâu Canh tìm phương thuốc cứu chữa. Trâu Canh ra chợ Cửa Đông mua mấy hàng thuốc Nam các thứ thông dụng: Diêm sinh (lưu hoàng), cây chân chim (ngũ gia bì), củ súng (khiếm thực), củ mài (hoài sơn)… cho vua Dụ tông (thái tử Vượng) trong uống, ngoài đắp. Dụ tông quả nhiên khỏi bệnh. Nhưng Trâu Canh chưa cho gặp các cung nữ vội, bắt phải thông dâm với chị ruột (công chúa Thiên Ninh) ba lần… Sau đó, những cung nữ được chọn dâng lên vua do Trâu Canh đã bí mật gian dâm trước. Thời gian sau, bệnh Dụ tông tái phát như cũ, nhưng một số cung nữ vẫn có chửa! Thượng hoàng Hiến tông sai tra hỏi, họ đều thú nhận. Hiến tông khép Trâu Canh án tử hình. Dụ tông xin tha tội chết, chỉ cách tuột chức tước, vì dù sao y cũng có công chữa bệnh cho vua. Đám cung nữ xấu số bị đuổi ra khỏi cung. Họ không thể mang giống nòi Trâu Canh. Họ ra chợ Cửa Đông tìm đến các mế nàng bán thuốc Nam, xin được thương tình “cho” ấm thuốc lá…
Vua Dụ tông chết sớm, ngôi báu truyền sang Nhật Lễ. Vốn Lễ là con trai Kép hát Trung Quốc Dương Khuông do Cung Túc vương Nguyên Dục thích vợ anh ta đẹp, hát hay lấy về làm lẽ đã có mang 3 tháng, sau đẻ ra Nhật Lễ. Nhật Lễ được làm vua, ra lệnh tàn sát tôn thất, giết cả Thái hậu, đưa người họ Dương và phe cánh vào triều nắm giữ các chức vụ trọng yếu. Đất nước đứng bên bờ vực thẳm…
Thiên Ninh công chúa (chị ruột Dụ tông) họp gia nô làm lính, hẹn Cung Định vương Trần Phủ hội quân tại bến sông Đại Lại Thanh Hóa rồi kéo ra Thăng Long bắt giết Dương Nhật Lễ, đưa Trần Phủ lên ngôi làm Nghệ tông. Đất nước lại đứng vững sau cơn nguy biến nhất thời.
Thời Trần, Nho học nước ta bắt đầu phát triển. Những tài năng lỗi lạc, danh sĩ xuất chúng: Lê Văn Hưu, Chu Văn An, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn, Lê Quát, Trương Hán Siêu… đều xuất thân cửa Khổng sân Trình. Nhưng quan trường đất chật, nho sĩ người đông, không “tiến vi quan” thì “đạt vi sư”. Ai cũng làm nho sư (thầy đồ) kiếm đâu ra học trò? Đành “sư” nào là “sư”: Địa lý sư, y sư, bốc sư, pháp sư,… Nhiều người chọn nghề thầy thuốc chữa bệnh cứu người, giúp đời. Họ nghĩ học thuốc Bắc dễ kiếm sống vì chỉ có thuốc Bắc mới có sẵn thầy để học, sách để đọc và thuốc Bắc để chữa bệnh. Họ xuất thân từ nông thôn, hành nghề ở nông thôn. Nhưng thuốc Bắc giá đắt, đa số nông dân nhà nghèo khó, vẫn dùng thuốc Nam là chính vì rẻ tiền, lắm khi không mất tiền. Ví dụ: Chị Cò có thằng Cu bị đi phân lỏng đến nhà thầy thuốc Nam hỏi “xin” tí thuốc. Thầy (chỉ là bà lang vườn) bảo: “Nhà chị về nhà hái mấy ngọn ngấn hương, mấy búp chè, mấy đọt ổi, thêm vài ba hạt muối, nhai nát trún cho cháu vài ba lần thì khỏi!” Chị Cò nghe lời thầy về làm theo, quả nhiên thằng Cu khỏi.
Ở nông thôn, thực tế, từ vườn ngõ nhà mình đến đầu làng cuối xóm, ngoài đồng ruộng, bái hoang, chỗ nào cũng mọc đầy cây cỏ có tác dụng chữa bệnh. Người dân nào cũng ít nhất biết một vài bài thuốc Nam đơn giản chữa bệnh. Thành ngữ “Thầy nhà lá vườn” phản ánh khá chính xác tình hình thuốc thang và công việc chữa bệnh trước kia ở nông thôn nước ta.
Thầy thuốc Bắc thường phải có dao cầu, bồ thuốc, nhưng ít khách, thị trấn xa, hay bị “què vị” (thiếu vị) không dễ “bổ vị” (mua bổ sung) đành phải tính bài “thay vị” Bắc bằng vị Nam. Thì nhà thầy có cả kho “bán không ai mua, cho không ai lấy”. Nhà thầy cũng như nhiều nhà khác, trên một mảnh vườn hẹp, có biết bao cây thuốc, vị thuốc quý: Cây núc nác đầu ngõ, vỏ tác dụng như vị hoàng bá, cây vối sau nhà vỏ là hậu phác, cỏ gấu mạnh như gấu, củ của nó là hương phụ, cây cứt lợn mọc đầy bờ vườn là vị hy thiêm, cây cau cao vút, hạt già là vị binh lang, dây trầu không leo cây cau có thể thay vị phòng phong, v.v…
Nam dược thần hiệu là bộ sách lớn đặc biệt giá trị của Đại y sư kiêm đại thiền sư Tuệ Tĩnh. Ông chủ trương “Nam dược trị Nam nhân”, là người đầu tiên đặt nền móng cho việc tìm hiểu, nghiên cứu, xây dựng nền y học dân tộc nước nhà, trước hết vì:
Thiên thư đã định rõ Nam bang
Thổ sản cũng khác miền Bắc quốc.
Tuệ Tĩnh trên tinh thần khoa học, không bài ngoại hay bài xích Trung y Bắc dược. Ngoài bộ Nam dược thần hiệu, ông biên soạn rất công phu bộ Hồng Nghĩa giác tư y thư”, trong đó ông sở đắc khá nhiều cái hay của y lý Trung Hoa. Trong bài phú “Thuốc Nam” bằng quốc âm, Tuệ Tĩnh viết:
Tôi Tiên sư kính đạo Tiên sư
Thuốc Nam Việt chữa người Nam Việt.
Do thời tiết, khí hậu, đất nước phương Nam khác miền Bắc quốc, hoạt chất, tinh chất cây cỏ Nam Bắc tất không hoàn toàn giống nhau. Khí chất, bản tính người Việt Nam với người Trung Quốc cũng vậy. Đó là một đề tài hết sức thú vị, nhưng ở đây, trong một bài viết ngắn, không thể đi sâu. 
 
Thuốc Bắc bán ở chợ An Huy-T.Quốc
Hàng thuốc Bắc tràn ngập thị trường dược liệu, thầy thuốc Bắc cũng chiếm lĩnh “thị trường” chữa bệnh dẫn đến thị hiếu quen dùng, ưa dùng thuốc Bắc. Dược liệu Nam bị coi rẻ, thầy thuốc Nam bị coi thường, gọi bằng các tên lang vườn, lang khoai, lang băm, lang gà!
Nhưng thuốc Nam không thể mất, thầy lang không thể chết. Vì người Nam vẫn sinh tồn và phát triển, dù trải qua bao cuộc chiến tranh hủy diệt.
Một lý do rất đơn giản, thiết thực là thuốc Nam tiện và lợi. Những thầy thuốc trong Thái y viện thời Lê được đọc sách Bản thảo chữ Hán từ Thần nông bản thảo cổ xưa đến Bản thảo cương mục, Bản thảo tòng tân, Bản thảo thập di, Bản thảo vấn đáp, Nam phương thảo mộc trạng, v.v… Chắc chắn họ phát hiện quá nửa số dược vị trong Bản thảo cương mục nổi tiếng của Lý Thời Trân (đời Minh), ở Việt Nam cũng có và tác dụng chữa bệnh giống nhau.
Tiêu biểu cho giới thầy thuốc thời Lê là danh y Trần Ngô Thiêm, sống nửa đầu XVIII, người làng Tây Mỗ, Từ Liêm (Hà Nội), một ngự y rất được các vua nhà Lê tín nhiệm. Những phương thuốc kinh nghiệm của ông truyền lại, ngoài phương dược cổ rút ra từ y thư Trung Hoa được các danh sư Trương Trọng Cảnh, Trần Tu Viên,… bàn luận nhiều và một số phương thang do ông tự cải tiến, có không ít bài thuốc theo kinh nghiệm chữa bệnh của nhân dân, ông sưu tầm được. Trong đó, nhiều phương thuốc mang tính Bắc - Nam kết hợp. Đặc biệt, Trần Ngô Thiêm sử dụng cả thuốc dân gian kinh nghiệm của người Việt. Ví dụ: Bệnh trẻ em bị kinh phong méo mồm, lấy máu mào gà bôi vào thóp và góc hàm em bé sẽ khỏi. Nếu trẻ em bị kinh phong phát sốt: Chích máu mào gà hòa với ít bột hùng hoàng cho uống, v.v…
Đời Tây Sơn, ngọn cờ  “Nam dược thần hiệu” do Tuệ Tĩnh dựng lên (thế kỷ XIV hay XVII?) được vua Quang Trung phất cao bằng việc thành lập Viện nghiên cứu chữa bệnh bằng thuốc Nam (Nam dược cục) do danh y Nguyễn Hoành làm Viện trưởng (Ngự y chính, chánh cục) là đòn chí mạng vào độc quyền thuốc Bắc của Trung Quốc. Theo lương y Nguyễn Minh Cầu (hậu duệ Nguyễn Hoành), Nguyễn Hoành có soạn sách Nam dược bản thảo, Y học nhập môn ca… Rất tiếc, sau khi vua Quang Trung mất (1792) Nam dược cục không được vua Quang Toản quan tâm, Nguyễn Hoành xin giải chức, về quê Thiên Linh, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa, làm một lang vườn!
Thực tế, không phải mới từ Lê - Tây Sơn mà đời Trần thuốc Nam đã được chú trọng với việc Trần Hưng Đạo gây trồng vườn cây thuốc Nam trên núi Sơn Dược (Hải Dương), ẩn sĩ Trần Tu (Thời Trần - Hồ) cũng có một vườn “thuốc tiên” trên đỉnh Am Tiên, núi Nưa (Thanh Hóa)…
Triều Nguyễn biên soạn bộ Đại Nam nhất thống chí, chú trọng mục sản vật, trong đó sưu tầm, ghi chép những vị thuốc quý ở từng địa phương như sâm báo, sâm Bố Chính, quế Thường Xuân, ý dĩ Thanh Hóa, nam tinh Vĩnh Lộc, sơn dược Kinh Bắc, v.v… Rất độc đáo và đặc sắc một số cây thuốc Nam được khắc hình lên đỉnh vạc lớn đặt ở sân nhà Thái miếu kinh thành Huế: Quế Thanh (Nghị đỉnh), Hương nhu (Thuần đỉnh), Sa nhân (Thuần đỉnh), Hột sen (Nhân đỉnh), Quả nhãn (Tuyên đỉnh), Tía tô (Dụ đỉnh), Kiệu (Chương đỉnh), Tỏi (Huyền đỉnh), Gừng (Tuyên đỉnh), Hành (Cao đỉnh), Hẹ (Nhân đỉnh), Đậu xanh (Chương đỉnh), Đậu trắng (Dụ đỉnh), Đậu ván (Nhị đỉnh)… Khắc ghi vào đỉnh vạc những cây thuốc, vị thuốc quý của Nam dược là cách khẳng định giá trị muôn đời của thuốc Nam trường tồn bất diệt cùng với người Việt Nam, giang sơn gấm vóc, đất nước yêu quý Việt Nam.
Thời kỳ kháng chiến 30 năm chống giặc ngoại xâm (1945-1974) nguồn thuốc Bắc khan hiếm, thuốc Nam càng được khẳng định vai trò “Nam dược trị Nam nhân” và khả năng “thần hiệu” của nó.
Tỉnh Thanh Hóa, thời kỳ phong kiến chống bành trướng xâm lược phương Bắc, ra đời loại hình trò diễn dân gian. Rất nhiều trò Ngô, nội dung hài hước, chế diễu, đả kích quân Tàu thực dân “sang Nam Việt bán buôn làm giàu” bằng các thủ đoạn xảo quyệt, vô nhân tính. Ví dụ: Trò Khách xưa ở làng Thiết Đanh, Yên Định và Bằng Trình, Thiệu Hóa. Một chú khách Tàu bán thuốc Bắc (đi cùng thầy địa lý Tàu) quảy đôi bồ rao thuốc: “Cái nị (ông, bà)! Cái nị! Thôốc lớ! Thôốc lớ! Ngộ tựa (từ) Quảng Tông (Quảng Đông), ngộ sang Pắc kè (Bắc kỳ), cái nị muốn thôốc chi, ngộ cũng pán!” Một người Nam nói đế: “Thôốc thôốc, thôốc chi mà thôốc? Bải (phải) rồi! Củ chuối, củ nâu, nấu chín, nhuộm đen thành thôộc tịa (thục địa)!” Người khác đế thêm: “Thôốc thôốc! Thôốc tốt nhờ thang, cả làng nhờ thuốc thầy Tàu: Đau bụng thì uống nước đồng, đau mắt lấy mủ xương rồng mà tra, nhức đầu lấy đá mà va…!” Khán giả cùng cười vang. Thầy Tàu cũng nhe bộ răng trắng nhởn ám khói vàng khè cười hềnh hệch !... (1)
Đó là bản chất, bản tính tàn ác, xảo quyệt, trơ tráo của người Trung Quốc. Cho nên ông cha ta từ xưa đã chỉ rõ chân tướng : “Thuốc Nam đánh giặc thuốc Bắc lấy tiền(2). Nay, thuốc Bắc vẫn xuất sang ta, dùng nhiều hóa chất độc hại khi gieo trồng, bào chế cùng hạng thầy Tàu rởm, khoe khoang chữa bách bệnh nan y đều chung mục đích như tổ tiên họ “Sang Nam Việt bán buôn làm giàu” không từ thủ đoạn lừa đảo, cướp của, giết người!
Xem ra cuộc chiến ngàn năm thuốc Nam - thuốc Bắc chỉ là một trong nhiều trận địa cam go, chưa có hồi kết...
                                                                                   HTP - 20/6/2014
............
 (1) - Câu này có vẻ mâu thuẫn. Nhưng người Tàu để răng trắng (không nhuộm răng như người Việt) vì hút thuốc phiện nên răng ngả màu vàng khè.

 (2) - “Đánh giặc”, nghĩa bóng ở đây là “chữa bệnh”. Ý nói, các vị thuốc Nam được đặt cái tên chữ thuốc Bắc, giả làm thuốc Bắc. Bệnh khỏi là do thuốc Nam của ta, nhưng tiền thu về lại bỏ vào túi thương nhân Tàu, thầy thuốc Tàu. Câu “Thuốc Nam đánh giặc, thuốc Bắc lấy tiền”, “Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam” của GS Nguyễn Lân giải thích: “ý nói: thuốc nam công hiệu, còn thuốc bắc thì đắt tiền”. Các giải thích này tối nghĩa, do tác giả không hiểu được nghĩa đen - bản chất sâu xa của vấn đề (chú giải của Hoàng Tuấn Công) 

Chuyện Tự Do Báo Chí

CHUYỆN TỰ DO BÁO CHÍ

Mạc Văn Trang


Chiều 20/6/2014 thằng cháu nhà báo đến chơi tặng cho tập thơ.

-Sao mày chán báo đi làm thơ à?

- Vẫn làm báo, nhưng những cái bức xúc không nói được bằng báo thì làm thơ cũng là cách giải tỏa …

- Sao bảo bây giờ báo chí “quốc doanh” cũng tự do lắm cơ mà?

- Tự do được nói một nửa sự thật…

- À, chú mới tìm thấy bài của Phan Đăng Lưu nói về “Tự do báo chí” rất ngắn gọn mà hay”.

- Ông Phan Đăng Lưu cũng họ mình đấy chú nhỉ. Có bao nhiêu họ đã tìm lại gốc họ Mạc rồi chú?

- Có hơn 50 họ rồi. Anh nào có đệm chữ “Đăng” cũng là một trong những chỉ dấu gốc Mạc đấy: Trần Đăng Ninh, Trần Đăng Úy, Phan Đăng Nhật, Nguyễn Đăng Khoa…

- Cháu có đọc bài “Về tự do báo chí” của Phan Đăng Lưu rồi, viết từ 1938 nay vẫn nguyên giá trị…


- Nhưng ông ấy sống đến ngày nay vẫn đòi tự do báo chí theo tư tưởng ấy, chắc chính quyền Nguyễn Tấn Dũng cho đi tù rồi…

- Hoặc là ông ấy cũng trở thành Nguyễn Tấn Dũng, vì cơ chế làm nên con người mà…

- Có lý! Có lý! Hậu sinh khả úy. Thằng cháu thế mà khá!


Dưới đây là bài viết của Phan Đăng lưu trên tờ Báo DânTiếng (số ra ngày 19/1/1938).



Về tự do báo chí
Phan Đăng Lưu

Tự do báo chí không bao giờ có hại cho nhà cầm quyền,  vì nhiều lẽ:

1. Khi các báo được tự do xuất bản thì chỉ những tờ báo có dân chúng ủng hộ mới có thể sống, còn không thì chết hoặc sống ngắc ngoải, chẳng có ảnh hưởng gì đáng sợ.
2. Một tờ báo đã sống, đương nhiên nó đại diện cho một tầng lớp dân chúng, nó diễn đạt tất cả hoài vọng và chí hướng của đám dân ấy. Nhà cầm quyền muốn cai trị được hoàn thiện, không thể bỏ qua những hoài vọng hoặc chí hướng của đám dân này. Tất nhiên cũng cần đọc hết tờ báo ấy.

3. Một tờ báo nói vượt qua trình độ dân chúng, kêu gào dân chúng làm những việc tày trời không bao giờ dẫn đạo được dân chúng, sẽ bị dân chúng gạt qua bên mặt trận nghịch thù.

4. Một tờ báo sống một cách mạnh mẽ, có ảnh hưởng trong dân chúng, đưa ra những vấn đề trái ngược với quyền lợi của nhà cầm quyền, cũng chẳng có hại cho cuộc trị an. Nó chỉ là một tiếng còi báo trước cho chánh phủ hãy thay đổi chính sách cai trị đi để chuộc lòng dân.

Căn cứ vào những lẽ đó, chúng tôi quả quyết rằng tự do báo chí không bao giờ có hại cho nhà cầm quyền. Có hại chăng là một chánh sách cai trị hẹp hòi, đi ngược với sự tiến hóa của dân chúng mà thôi.

Báo DÂN TIẾN (số ra ngày 10/11/1938)
Ghi chú: 

Phan Đăng Lưu, (1902-1941) là nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ông tốt nghiệp Trường Canh nông và tham gia Hội Phục Việt (sau đổi thành Tân Việt Cách mạng Đảng) giữ chức uỷ viên Tổng bộ. Ngày 15 tháng 12 năm 1928, ông sang Trung Quốc để liên lạc với Tổng bộ Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, sau gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.

Tháng 9/1929, ông bị chính quyền thực dân Pháp bắt và bị đày đi nhà tù Buôn Ma Thuột. Ra tù năm 1936, ông tham gia lãnh đạo phong trào Mặt trận Dân chủ ở Huế. Trong thời gian này ông đã viết nhiều bài báo, tác phẩm với bút danh Tân Cương, Phi Bằng.

Năm 1938, ông được bầu uỷ viên ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Đông dương và uỷ viên thường vụ trung ương. Tháng 11/1939, ông tham dự Hội nghị thứ VI (Hội nghị quyết định nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thành lập Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế).

Tháng 11/1940, tại Hội nghị VII của Ban Chấp hành trung ương Đảng CSĐD, ông được bầu là Ủy viên Thường vụ và được phân công chỉ đạo phong trào ở Nam Kỳ. Tháng 11/1940, ông bị bắt khi vừa về đến Sài Gòn. Ngày 18/8/1941, ông bị thực dân Pháp kết án tử hình và bị bắn ở Hóc Môn.

M.V.T

Gian trá đến mức tinh quái.

Những Lời Trăn Trối của Trần Đức Thảo

Phạm Thanh Tâm

Hồ Chí Minh: con khủng long ba đầu, chín đuôi



Đã có nhiều tác giả tây ta viết về nhân vật Hồ Chí Minh (HCM) riêng cuốn Trần Đức Thảo Những Lời Trăng Trối là cuốn rất đặc biệt vì sách đã “phân tích sư thật về những hành động khủng khiếp” của họ Hồ bởi một triết gia “lỗi lạc của Việt Nam và thế giới.” Năm 1951 ông bỏ Paris về bưng, qua ngả Mạc Tư Khoa, tham gia kháng chiến chống Pháp; đã từng “trải nghiệm gian khổ trong chiến tranh, trong cách mạng” suốt 40 năm. Nhà triết học họ Trần trước khi mất đã khẳng định, Marx đã gây ra mọi sai lầm và tội ác. Ông còn nói, chính “cuồng vọng lãnh tụ” đã khiến “ông cụ” là một con người “cực kỳ vị kỷ, bất chấp những chuẩn mực của lương tri, của đạo lý.” Theo ông, đây là “một Tào Tháo muôn mặt của muôn đời” và “là một con khủng long ba đầu, chín đuôi.”



Lời trối trăn của nhà triết học Trần Đức Thảo cho biết, “nếu không dám khui ra những sai trái lịch sử của “ông cụ,” không dám đưa ra ánh sáng tội lỗi của Marx thì không bao giờ thoát ra được tình trạng bế tắc chính trị độc hại như hiện nay ở nước ta.” Theo ông, quá khứ cách mạng của Việt Nam đã tích tụ quá nặng đầy những di sản xấu. Quyển sách dày 427 trang là những lời tâm sự sống động của một nhà tư tưởng giúp độc giả hiểu rõ nguồn gốc của thảm kịch đang bao phủ lên thân phận dân tộc, lên đất nước ta. Ông cảnh báo xã hội Việt Nam “đang bị ung thối bởi căn bệnh xảo trá, căn bệnh thủ đoạn của đảng.” Ông bị tống đi ra khỏi quê hương vĩnh viễn với cái vé đi một chiều, bị đuổi khỏi Sài Gòn , buộc phải đi Pháp, không được trở về Hà Nội.

Trong cuốn sách, nhà triết học Trần Đức Thảo (1917-1993) đã vạch ra rằng, về lâu về dài, càng thấy ba chọn lựa của “cụ Hồ” mang tính sinh tử với đất nước và dân tộc, đã để lại di sản vô cùng trầm trọng: “chọn chủ nghĩa xã hội của Marx để xây dưng chế độ, chọn chiến tranh xóa hiệp định hòa bình để bành trướng xã hội chủ nghĩa và thống nhất đất nước, chọn Mao và Đảng Cộng Sản Trung Quốc làm đồng minh, đồng chí.” Sách có 16 chương, một chương chỉ để giải mã lãnh tụ; nhưng ở chương nào HCM cũng được đề cập tới. Ông xác nhận, hễ nói tới thảm kịch Việt Nam thì “không thể không nhắc tới ông cụ.” Cố giáo sư quả quyết, ‘phải nói thẳng ra là Mao đã trực tiếp bẻ lái “ông cụ”; và “Trung Quốc muốn nhuộm đỏ Việt Nam theo đúng màu đỏ đậm của Trung Quốc.”

Đãi ngộ hay bạc đãi



Triết gia Trần Đức Thảo (TĐT), nổi tiếng về hiện tượng luận, từng tranh cãi với Jean-Paul Sartre được đảng Cộng Sản Pháp vận động để được cho về xứ nhằm phục vụ cách mạng vì “tôi có những nghiên cứu sâu rộng cuộc cách mạng tháng 10 ở Nga và có vốn hiểu biết vững chắc tư tưởng của Karl Marx.” Khi về tới quê hương “tôi bị vỡ mặt và vỡ mộng” ; bị nghi là “siêu gián điệp trí thức.” Tên tuổi ông, một thời danh tiếng trời Âu chìm hẳn. Năm 1991 ông “bị đẩy trở lại Paris.” Thế nhưng, sau khi qua đời ngày 24 tháng 4, 1993, nhà cầm quyền Hà nội lại truy tặng ông huy chương Độc Lập; ca tụng ông là nhà triết học lớn của thế kỷ. Họ còn cho rằng “”tư tưởng HCM” đã có ảnh hưởng với nhà triết học số một Việt Nam và lúc sinh thời đảng, nhả nước rất mực trọng đãi ông.
Có thật thế không? Trong chương Đãi Ngộ Hay Bạc Đãi, ông nói, những chức vị mà người ta ban cho, “che giấu một đối xử nghiệt ngã và tồi tệ.” Ông cho biết, sự có mặt của ông trong một số sinh hoạt chỉ là “bù nhìn đứng giữa ruộng dưa.” Sự thật “họ chỉ để cho sống; cho tôi khỏi chết đói; chỉ toàn là bạc đãi.” Nhà triết học phân trần, chúng bắt “tôi phải gắng mà học tập nhân dân nghĩa là phải cúi đầu tuyệt đối vâng, nghe lời đảng.”
Ông tiết lộ, tuy có chức phó giám đốc trường Đại Học Văn Khoa Sư Phạm nhưng “chưa hề được tham dự bàn bạc gì vào việc tổ chức, điều khiển, ngay cả ý kiến giảng dạy cũng không hề có.” Sự có mặt của ông trong các buổi họp hay đi theo các phái đoàn thanh tra là chỉ để “giới thiệu có thạc sĩ triết bên tây về ủng hộ cách mạng.”

Những điều nói đó phù hợp với bài báo của nhà thơ Phùng Quán Chuyện vui về triết gia Trần Đức Thảo đăng trên báo Tiền Phong ngày 11 tháng 5, 1993: nhờ cái chết của nhà tư tưởng lớn này qua các báo mà rất nhiều người trong nước được biết rằng đất nước chúng ta đã từng sinh ra một triết gia tầm cỡ quốc tế. Ông ta sang tận bên Tây mà chết. Khi sống ở trong nước thì lôi thôi nhếch nhác hơn cả mấy anh công nhân móc cống.
Mùa rét thì áo bông sù sụ, mùa nực thì bà ba nâu bạc phếch, quần ống cao ống thấp, chân dép cao su đứt quai, đầu mũ lá sùm sụp, cưỡi cái xe đạp “Pơ-giô con vịt” mà mấy bà đồng nát cũng chê. Thật đúng như anh hề làm xiếc! Mặt cứ vác lên trời, đạp xe thỉnh thoảng lại tủm tỉm cười một mình, một anh dở người.”

Mưu thần chước quỷ



Nhiều người tự hỏi bị đối xử cay đắng như vậy sao “bác Thảo lại hay có lúc bật cười như điên”; và bị chung quanh chê bai, chế giễu “bác là người khùng”? TĐT cho hay, ông bắt đầu “hết cười rồi lại khóc” sau khi tham gia đợt thì hành cải cách ruộng đất ở huyện Chuyên Hóa, tỉnh Tuyên Quang năm 1953. Lương tri trỗi dậy khi thấy lãnh đạo “chọn con đường hành động nặng tính cuồng tín, dã man.” Ông nói, “chẳng thà là thằng khùng hơn làm thằng đểu, thằng ác, thằng lưu manh.” Về giai thoại TĐT đi chăn bò, theo ông, đó là một sự xấu hổ cho cả nước. Làm nhục một trí thức là lối hành xử của một chính quyền man rợ, bị ảnh hưởng Trung Quốc, buộc họ phải học thuộc lòng câu “trí thức không bằng cục phân” của Mao.
Nhà tư tưởng họ Trần nhận xét, Cộng Sản Việt Nam rất sùng bái Trung Quốc, “cứ như là con đẻ của Đảng Cộng Sản Trung Quốc.” Là một nhà triết học, có thói quen tìm hiểu, đánh giá lại, ông thấy “nước ta trồng cây tư tưởng của Marx, cho tới nay cây đó chỉ cho toàn quả đắng.”
Chính “cái thực tại tàn nhẫn khi chứng kiến sự đau khổ của con người bị kềm kẹp bởi ý thức hệ” khiến ông muốn “đặt lại vấn đề từ học thuyết.” Triết gia TĐT nói, nhiều lãnh tụ “từ lầu đài tư tưởng Marx bước ra đã trở thành những ác quỉ.” Theo ông, “quỉ ấy là ý thức đấu tranh giai cấp”; là thứ “vi rút” tư tưởng độc hại vô cùng; nó phá hoại xã hội, nó thúc đẩy con người đam mê tìm thắng lợi, bằng đủ thứ quỉ kế, để mưu đồ củng cố cho chế độ độc tài, độc đảng.
Theo nhà triết học số một của Việt Nam, “ông cụ” là một nhà ảo thuật chính trị đại tài: lúc thì biến có thành không, lúc thì biến không thành có. Đúng là “mưu thần chước quỉ” chuyên hành động muôn hướng, muôn mặt, “trí trá còn hơn huyền thoại Tào Tháo trong cổ sử Trung Quốc!”
Bác Hồ đánh lừa dư luận Âu Mỹ, khi chép lời nói đầu bản tuyên bố độc lập của Mỹ; đánh lừa các đảng trong nước khi thành lập chính phủ đại đoàn kết và mời cựu hoàng Bảo Đại làm cố vấn. Vài tháng sau, Võ Nguyên Giáp dẹp bỏ; coi họ là phản động; đẩy Bảo Đại sang Côn Minh. “Ông cụ” còn được triết gia TĐT gọi là một nhà chính trị “thần sầu quỉ khốc” khi “ông cụ” khôn khéo mưu tìm sự tiến cử của Mao để được đưa về xứ làm lãnh đạo duy nhất phong trào cách mạng Việt Nam.
Cố Giáo sư TĐT kể lại rằng, biết mình bị Đệ Tam Quốc Tế tức Liên Sô loại đuổi khéo về Viễn Đông và biết Mao là thủ lãnh các phong trào cộng sản ở Châu Á, “ông cụ” vào làm việc cho Bát Lộ Quân, tuyên thệ gia nhập Đảng Cộng Sản Trung Quốc; được Mao rất ưu ái. Nhờ vậy, “ông cụ” từng bước loại bỏ tất cả đối thủ Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn văn Cừ... để rồi vươn lên làm Tổng Bí Thư kiêm chủ tịch nước năm 1945. Dù sự tấn phong “ông cụ” ở các đại hội Ma Cao và Hồng Kông bị phản ứng của các khu ủy, xử ủy và của “Đê Tam” nhưng nhờ Mao dàn xếp nên đã qua mặt những sự phản đối này vì họ là những kẻ đã từng nhận được sự nâng đỡ của cộng sản Trung Quốc. Triết gia họ Trần nói thêm, “ông cụ” luôn luôn là người biết chụp bắt cơ hội.”

Huyền thoại “bác Hồ”



Vẫn theo nhà tư tưởng TĐT, các nhà nghiên cứu nước ngoài khi viết về HCM họ bị chói lòa bởi những huyền thoại về “ông cụ” của bộ máy tuyên truyền; họ sử dụng sản phẩm chính thống của đảng thì làm sao họ hiểu hết được mặt thật của họ Hồ. Ông nói, có một thứ tư liệu rất chính gốc, bộc lộ rõ cái cuồng vọng lãnh tụ của “ông cụ”; nó chi phối từ nội tâm. Đó là những tên giả chính “cụ Hồ” đã tự đặt cho mình. Muốn tìm hiểu cặn kẽ, phải phân tách những chuyện biến tư tưởng qua từng giai đoạn đổi tên, đổi họ; từ những cái tên “Tất Thành,” rồi “Vương,” rồi là “Ái Quốc,” chót hết là “Chí Minh.”
Đấy là những biểu hiện của một thứ bệnh tâm thần, khao khát danh vọng. HCM chỉ thành lãnh tụ cách mạng sau khi không được cho vào học Trường Thuộc Địa để ra là quan.
Nhà triết học nói thêm rằng, một người tự viết sách đề cao mình, như cuốn “Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ chủ tịch” và “Vừa đi đường vừa kể chuyện” thì không thể là một người vì nước vì dân được. “Ông cụ” đã tạo ra một thời chính trị điên đảo. Ngoài ra, đám quần thần chung quanh “ông cụ,” không tha thứ cho ai dám tỏ ra ngang hàng với “Người.” Họ tôn vinh “ông cụ” làm bác, làm cha dân tộc. Tạ Thu Thâu chết mất xác vì câu nói “ngoài bắc có cụ, trong nam có tôi.” TĐT cho biết, năm 1946 gặp “ông cụ” trong một buổi chiêu đãi ở Paris, ông đã bất ngờ trước lời khước từ: “cách mạng chưa cần tới chú đâu” của HCM; khi ông tự ý nắm tay “ông cụ” ngỏ lời: “Tôi muốn về nước cùng cụ xây dựng thành công một mô hình cách mạng tốt đẹp tại quê hương.”
Dù thế, triết gia vẫn nhờ bạn bè phương tây giúp ông được về nước tham gia kháng chiến. Nhờ vậy, ông có cơ hội quan sát một Hà nội và Sài Gòn đang bị lột xác theo sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Một giai cấp thống trị mới đang hình thành. Càng quan sát nhà tư tưởng TĐT càng thấy huyền thoại về “bác Hồ” là tác phẩm của “cả một công trình nghệ thuật hóa trang cao độ.” Cái gì có giá trị là của bác, của đảng. Họ công kênh “ông cụ” lên làm bậc thần, bậc thánh. Theo TĐT, “phải hít thở cái không khí” thờ kính, phục tùng lãnh tụ mới có thể hiểu phần nào những “phương pháp tâm lý tinh vi” tôn sùng HCM. Ông nhấn mạnh, “bác Hồ” chỉ có thể coi như mẫu mực thành đạt về chính trị; “không thể nào là mẫu mực về mặt đạo đức”; vì cách sống muôn mặt của bác đâu phải là gương sáng.

Nhà triết học bị kết tội “cầm đầu âm mưu chống đảng” vì hai bài viết trên Nhân Văn Giai Phẩm (NVGP), do một số anh em văn nghệ trẻ chủ xướng. Ông cho biết, nếu không có mấy nhà trí thức Pháp đứng đầu là Sartre “tận tình quan tâm, chăm sóc” đến ông thì với mấy tội: tự ý nắm tay bác năm 1946 đòi cùng về nước làm cách mạng; từ chối lên án bố mẹ khi khai lý lịch; muốn đấu lý với cố vấn Trung Quốc lúc làm đội viên cải cách ruộng đất và vụ NVGP, ông có thể “dễ chết như chơi.” Năm 1952 triết gia được dẫn đi chào “Bác.” Ban lễ tân dặn ông bốn điều cần nhớ: phải đứng xa “Người” ba mét, chỉ lại gần khi “Người” ra lệnh; không được nói leo, chỉ trả lời câu hỏi; không được chào trước; không được nói tôi phải xưng bằng cháu, gọi “Người” bằng “bác.

Chư hầu ngoan ngoãn



Theo sự chiêm nghiệm của triết gia TĐT thì HCM chưa đọc kỹ học thuyết sách vở của Marx, “tư duy xổi nên chưa tiêu hóa được”; nhưng lại “đọc thuộc lòng cuốn “Le Prince” của Machiavel,” cuốn chỉ bày tận dụng mọi thứ để người ta sùng bái. “Ông cụ” luôn luôn chứng tỏ một bề ngoài nặng lý trí đến vô cảm; không thiết tha với gia đình; không có bạn hữu thân tình. “Ông cụ” rất ghét cánh Tây học. Trong vòng thân cận, chỉ có toàn hầu cận ít học được ”ông cụ” đào tạo để phục tùng; rồi sau đề bạt lên làm lớn. “Ông cụ” làm thơ là “do cuồng vọng chính trị,” là để “ca ngợi mình” và “hô hào quyết chiến.” Nhà triết học này còn cho rằng, trên thân phận HCM có một bóng ma quái nó đè. Đó là “ bóng ma đế quốc bành trướng vô cùng độc đoán, lấn át của Mao.”
Vẫn theo TĐT, ý thức hệ xã hội chủ nghĩa chỉ là một phương cách giam hãm các dân tộc chư hầu với cái tên đẹp “khối các nước xã hội chủ nghĩa anh em” nhưng thực chất là một đế quốc đỏ; nó kềm kẹp các dân tộc nhược tiểu quanh nó. Đó “chỉ là thứ liên minh ma quái, quỉ quyệt, giả dối”; muốn biến “nước ta thành một chư hầu ngoan ngoãn.” “Ông cụ” vì tham vọng quyền lực từ ý chí muốn học ra làm quan nhưng không được nên đã lấy học thuyết “giai cấp đấu tranh” làm kim chỉ nam để tạo cơ hội thành danh, thành lãnh tụ. Nhà triết học nói, để nắm vững quyền lực “ông cụ” phải thủ vai ông thánh, ông thần,” từ bỏ cả vợ con, mất đi tính người, thẳng tay tiêu diệt những kẻ có tài. Lại thêm, Mao đã cài chung quanh “ông cụ” một đám cực kỳ cuồng tín.
Trong chương “Hai chuyến di chuyển đổi đời” của cuốn sách, nhà triết học họ Trần cho biết, ông được rời cảnh “sống như bị giam lỏng ở Hà nội” để vào Sài Gòn ở là nhờ sự vận động của một số đồng chí trí thức Nam Bộ. “Sài Gòn đã làm tôi bàng hoàng tới cùng cực. Khang trang và hiện đại; đâu có đói khổ vì bị Mỹ Ngụy kềm kẹp. Miền Nam đã có một mức độ dân chủ rõ rệt.
Miền bắc bị tư tưởng Mac-Lenine làm nảy sinh những chính sách đầy sai lầm. Sĩ quan của “bộ đội cụ Hồ” đã có “thái độ thô bạo, ứng xử thô bỉ” khi nhục mạ, gọi Dương văn Minh là mày, và bắt cả nhóm phải đứng cúi đầu.” Đấy là những lời thố lộ của TDT mà nhà văn Tri Vũ Phan Ngọc Khuê đã viết lại qua các cuốn băng thu những điều ông tâm sự với một số bạn trong sáu tháng cuối đời ông ở Paris.
Nhà triết học còn thú nhận Trần Dần và Trịnh Công Sơn là hai người đã thúc đẩy ông phải thoát khỏi thái độ hèn nhát đã ngự trị trong đầu óc trí thức và văn nghệ sĩ Hà nội; giới này đã ứng xử đồng lõa với tội ác của cách mạng. Người thứ nhất là Trần Dần lúc ông ta mời viết cho NVGP. Người thứ hai là các bài hát của họ Trịnh. Ngoài ra, những ai từng sống ở Sài Gòn sau 1975, nếu đọc chương “Vẫn chưa được giải phóng” đều nhận thấy những mô tả của triết gia về Hà nội năm 1954 rất giống Sài Gòn sau 30 tháng 4, 1975: “cả con người và xã hội ở đây đã không hề được giải phóng” và thật là “vô lý và nhục nhã” khi so sánh với chế độ cũ.
Ông nhận xét: tư hữu kiểu cũ do làm cần cù, tích lũy mà có được; tư hữu kiểu mới do chiếm đoạt bằng chữ ký và quyền lực.

Cao vọng hơn “bác Hồ”



Được gợi hứng bởi môi trường miền Nam, trong vòng 10 ngày TĐT hoàn thành một tập sách nhỏ “Con người và chủ nghĩa lý luận không có con người.” Đây là văn bản phản bác giáo điều, được đón nhận như một bông hoa lạ. Chẳng bao lâu sách bị cấm phổ biến. Giới cựu kháng chiến và nhiều trí thức khác còn ở lại trong nước tấp nập tới làm quen với nhà triết học để nghe những “lời tiên tri” là “cách mạng đã biến chất để tư bản man rợ tràn ngập.” Trung ương thấy số người “phức tạp” đến gặp “bác Thảo” càng ngày càng đông, nên Đảng đã quyết định “anh phải ra đi.” Nhà triết học than “thôi thì đành mang thân xác ra xứ người.” Qua Pháp, tuy đã một thời vang danh ở Paris, ông vẫn “lâm cảnh sống nay lo mai,” và còn bị Tòa đại sứ theo dõi kiểm soát chặt chẽ.
Trong cài xui có cái may. Nhà văn Tri Vũ-Phan Ngọc Khuê nhờ những lúc nhà triết học bán chữ để kiếm sống qua các buổi thuyết trình ở kinh đô ánh sáng mà đã làm quen thân với ông, được nghe ông tâm sự. Quyển sách ghi lại nỗi hối hận đã thiêu đốt ông vào lúc hoàng hôn của cuộc đời. Nhà văn cho hay ông “sẵn sàng trao mấy cuốn băng cho những ai muốn nghiên cứu về TĐT.” Trong sách nhà triết học có lần đã khẳng định: “Tôi có tham vọng cao hơn của ‘bác Hồ’ nhiều lắm.” Đấy là xây dựng “một lâu đài tư tưởng trong đó toàn thể nhân loại đều thể hiện rõ quyền sống của mình, quyền dân chủ bằng lá phiếu của mình.” Nhưng mộng đó không thành, triết gia lừng danh một thời trời Âu bị đột tử. Chúng ta mất đi “một kho tàng trải nghiệm về chiến tranh, về cách mạng.”
Người chủ trương Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích cho biết việc tái bản cuốn sách là để phục hồi danh dự một nhà tư tưởng lớn của Việt Nam. Trong lời bạt ông viết, “cuộc đời TĐT xem như cuộc đời tan nát vì “cách mạng” mà ông chọn phục vụ vào năm 1951 nên mọi sự trở nên vỡ lở.
Cuộc đời đó có thể xem như một bài học -”an object lesson”- với những ai để cho tình cảm, lý tưởng che mờ đi lý trí, kinh nghiệm. Không những ông mất vợ, không có đời sống gia đình, không có tự do trong bóng tối làm những việc ông muốn làm cho quê hương đất nước của ông. Sự nghiệp triết học của ông là một sự nghiệp dang dở.” Sách được xuất bản lần đầu với số lượng ít; tên gốc là Nỗi hối hận lúc hoàng hôn chỉ để thăm dò ý kiến thân hữu.
Những ai yêu “bác Hồ,” những ai coi HCM là tên tội đồ hay các nhà khoa bảng, các học giả, các ông bà phản chiến và những ai còn nghĩ đến nước Việt nên đọc cuốn này. Cho tới nay chưa có tác giả nào trên thế giới - ngoại trừ triết gia TĐT- nêu ra được, thật sáng tỏ, những điều vô cùng bi thảm trong thời cách mạng; vì ông đã trải nghiệm 40 năm trong cuộc. Ngoài ra, ông bà nào giỏi tiếng Tây tiếng Mỹ nên dịch sách ra cho thế giới biết thêm về HCM, kẻ đã lừa mọi người từ Âu sang Á; khiến nhà tư tưởng số một Việt Nam TĐT phải nói thẳng rằng, Napoléon, Hitler cũng có tâm thức tự cao tự đại nhưng “không gian trá đến mức tinh quái” để có những “hành động muôn hướng, muôn mặt, trí trá còn hơn cả huyền thoại Tào Tháo trong cổ sử Trung Quốc!”

Phải thế nào thì mới có thể hy vọng có một nền giáo dục tử tế?

Phải thế nào thì mới có thể hy vọng có một nền giáo dục tử tế?
        
GIAO DUC TU TE
 
Trong mấy chục năm qua, không biết bao nhiêu tiền của thấm đẫm mồ hôi nước mắt của các tầng lớp lao động đã đổ ra để tiến hành những cuộc cải cách rầm rộ trong giáo dục. Không biết bao nhiêu giấy mực đã tốn để bàn về việc nâng cao chất lượng giáo dục. Hàng chục quan chức cao cấp, hàng trăm nhà quản lý giáo dục và các giáo sư, tiến sỹ, nhà báo, nhà văn,… đã viết những bài rất hay ho về lĩnh vực cốt tử này. Có những người còn đề cập đến những vấn đề cao siêu như “triết lý giáo dục”, cao siêu đến mức hình như đa số những người nói đến cụm từ đó cũng chưa rõ nó là cái gì, nó có vai trò gì trong sự nghiệp giáo dục của chúng ta, và cần bao nhiêu thập niên với bao nhiêu ngàn tỉ để tìm ra nó.
Với hiểu biết của một người lao động bình thường, kẻ viết bài này xin mạo bàn về một “nền giáo dục tử tế”, một khái niệm không có trong khoa học nào. Và tôi xin nói rõ cái tôi gọi là “nền giáo dục tử tế” đó là gì.
Xin thưa, đó là nền giáo dục đáp ứng được những yêu cầu hết sức bình thường. Nói ngắn gọn là nó đào tạo được những con người tử tế, tức là có những phẩm chất cơ bản sau: có lòng tự trọng và biết tôn trọng người khác (riêng với cha mẹ, thầy cô và những người cao tuổi còn phải biết lễ phép, nhưng không tuân theo những đòi hỏi phi lý và phi pháp), có năng lực lao động để đem lại lợi ích vật chất hoặc tinh thần cho chính mình và xã hội (có kiến thức và kỹ năng tốt hoặc đạt yêu cầu về nghề nghiệp), có ý thức tôn trọng pháp luật (nhưng không tuân theo vô điều kiện những luật lệ phản động, lạc hậu). Trong lịch sử các dân tộc phương Đông như Việt Nam, Trung Hoa,… người ta đã diễn đạt những yêu cầu đó bằng những khái niệm “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Chỉ thế là đủ. Chỉ có điều ở thời đại ngày nay, đừng lồng vào những khái niệm đó những nội dung như trung thành tuyệt đối với một cá nhân hay nhóm người nào.
Người tử tế không thể xoen xoét nói những điều nhân nghĩa nhưng trong hành động thì chỉ làm và sẵn sàng làm mọi việc vì quyền lợi bản thân, kể cả chà đạp lên quyền lợi người khác, kể cả lợi dụng quyền lực để đàn áp dân lành. Người tử tế không thể là kẻ bợ đỡ, liếm gót những kẻ có quyền lực, đem tiền đi mua bằng cấp, chức tước, dùng chức tước bòn rút tiền bạc và thành quả lao động của người khác. Người tử tế không thể bắt hàng triệu người phải theo mình, phục vụ mình, tôn thờ mình như thánh. Người tử tế không tự nhận mình là người thông thái nhất, là đỉnh cao trí tuệ.
Muốn đào tạo được thế hệ trẻ thành những con người tử tế, trong gia đình và nhà trường, đại đa số người lớn (cha mẹ và thầy cô) phải là những con người tử tế. Đội ngũ quan chức trong ngành giáo dục phải là những con người tử tế. Những người định ra đường lối giáo dục phải là những con người tử tế. Cả xã hội phải là xã hội tử tế. Con cái không thể thành người yêu lao động, nếu cha mẹ trí trá, luôn tìm cách tránh trớ để đỡ phải làm việc thật sự tích cực. Học trò không thể kính thầy và ham học, nếu thầy cô thường xuyên làm những việc như soạn giáo án bằng cách cóp thứ có sẵn trên mạng, viết những bản thành tích điêu, cho điểm khống để lấy thành tích,… thậm chí tìm cách bòn rút tiền bạc của cha mẹ học trò. Nhưng chính thầy cô cũng không thể làm gương cho học trò về cách sống tốt, nếu thường xuyên bị cấp trên bắt phải làm những việc giả dối và ngu xuẩn hàng ngày, hoặc những việc không xấu nhưng bất khả thi. (Hãy về các trường học, hãy tìm cách tâm sự được với các thầy cô với tư cách bình đẳng chứ không phải với tư cách quan trên, quý vị sẽ thấy người giáo viên thời nay bị chính ngành giáo dục bắt phải làm những việc vô nghĩa và điêu toa như thế nào.)
Không thể có nền giáo dục tử tế, nếu những người có quyền định ra sách lược giáo dục là những người không hiểu về giáo dục và chưa từng thực sự làm người học trò phải vật lộn với từng môn học, là những người nói “xây dựng xã hội học tập” nhưng bản thân mình không bao giờ cầm đến quyển sách. Không thể có nền giáo dục tử tế, nếu bộ máy quản lý giáo dục gồm toàn “cánh hẩu”, không có những người dám đấu tranh quyết liệt vì cái đúng, và không có những quan chức hàng đầu dám chấp nhận và khuyến khích những ý kiến trái chiều. Không thể có nền giáo dục tử tế, nếu “dự án” này, “đề án” nọ chỉ là những trò chia chác. (Dù quý vị có đưa ra những bản thanh toán, hóa đơn chứng từ kín kẽ đến đâu, dù người dân có hoàn toàn bất lực trong việc đưa ra chứng cứ về sự gian lận, thì ai cũng vẫn hiểu quá rõ rằng tất cả chỉ là những trò ảo thuật ma mãnh.) Không thể có nền giáo dục tử tế, nếu vẫn còn những trò “thi đua” nhảm nhí, trong đó những kẻ mà ai cũng biết là dốt nát năm nào cũng được công nhận là “giáo viên giỏi”, “chiến sỹ thi đua”, trong khi những người có năng lực thực sự lại không bao giờ “đủ tiêu chuẩn” để được thừa nhận. Không thể có nền giáo dục tử tế, nếu đội ngũ thạc sỹ, tiến sỹ, phó giáo sư, giáo sư được đào tạo và trao bằng cấp không phải do năng lực, mà chỉ để đủ chỉ tiêu số lượng. Không thể có nền giáo dục tử tế, nếu trường học, đặc biệt là các cơ sở đào tạo từ đại học trở lên được mở ra tràn lan và tùy tiện…
Không thể có nền giáo dục tử tế, nếu đến một quý ông thứ trưởng giáo dục mà đi viết một “bài báo” như “link” dưới đây. Không thể có nền giáo dục tử tế, khi một quan chức hàng đầu của ngành này nói mà không ai hiểu ông ta nói gì (kiểu như: “Phương pháp đọc sách của tôi gồm ba bước: tập luyện, tu luyện và tinh luyện” – Ô trời ôi!).
Không thể có nền giáo dục tử tế khi tất cả những thứ gọi là cuộc vận động học theo cái này cái nọ gây lãng phí ngân sách hàng ngàn tỷ đồng, trong khi người ta thừa hiểu rằng nó chỉ có tác dụng ngược: nhân rộng sự giả dối, điêu toa, làm con người đổ đốn thêm. Không thể có nền giáo dục tử tế khi môn học được coi là quan trọng nhất để xây dựng “con người mới” lại là một thứ “học thuyết” cổ hủ, hão huyền. Không thể có nền giáo dục tử tế khi việc đánh giá con người không dựa trên hệ thống giá trị phổ quát mà nhân loại đã xây dựng nên, mà dựa vào những giá trị phù phiếm và thói bợ đỡ, xu thời.
Chừng nào những con người bất hảo còn chi phối ngành giáo dục và những trò nhiễu nhương kể trên còn được dán những cái nhãn mỹ miều, thì bất kỳ cuộc đổi mới hay cải cách nào cũng đều vô tác dụng. Thậm chí những cuộc cải cách đó chỉ làm giáo dục càng xuống cấp thêm. Và tất cả những góp ý, hiến kế của những người tâm huyết đều vô ích!
NGUYỄN TRẦN SÂM 

Trái bóng, giàn khoan và định mức khuây khỏa

Trái bóng, giàn khoan và định mức khuây khỏa
Nguyễn Vĩnh Nguyên
 
Hình như đã có một cuộc điều tra tâm lý nào đó cho ra kết quả rằng bóng đá và thi hoa hậu là hai thứ giúp tâm trí người ta khuây khỏa, xao nhãng với thực tại một cách dễ dàng.

Người đẹp, thì phải rồi. Mê ngắm người đẹp xem ra là hội chứng bình thường của quý ông còn khả năng và bản lĩnh. Đó không phải là thứ bệnh gì nguy hiểm mà phải kiêng cữ. Nhưng mê trái bóng thì sao? Chắc cũng phải có lý lẽ và “căn nguyên khoa học” của nó.


Nhìn ra thực tế, trái bóng World Cup vừa lăn được ít lâu thì tại Việt Nam, đề tài bàn luận trong các quán cà phê lập tức được chuyển hướng. Biển Đông sôi sục đã nhường chỗ cho những trận cầu sôi nổi.

Các trang thể thao bóng đá được mở rộng thêm trên các tờ nhật báo, thu hút sự chú ý của người đọc trong khi những thông tin cập nhật về cơn bão số 1 trên biển Đông đang gây lật thuyền ngư dân, khó khăn cho lực lượng thực thi pháp luật Việt Nam trong việc tiếp cận giàn khoan Hải Dương 981 xem ra chỉ còn chiếm một vị trí nhỏ trong mối quan tâm chung của xã hội.

Thật thế, tình hình biển Đông đang nguội, mất tập trung vì bảng lịch đấu dày đặc, toàn diễn ra lúc nửa đêm về sáng.

Khoan vội trách ý thức công dân. Mọi thứ xem ra có lý lẽ của nó. Trước hết, xét trên quy luật tâm lý tiếp nhận nội dung truyền thông trong xã hội thông tin hôm nay, không có gì có thể chiếm lĩnh trí não của con người ta quá lâu, kể cả những vấn đề tưởng hết sức hệ trọng, bởi đơn giản, nhu cầu về cái mới sẽ luôn được đáp ứng một cách đầy đủ bởi cái mới hơn. Bạn không phải chờ đợi quá lâu để có một món mới. Và món mới sẽ làm nhạt vị món cũ nhanh chóng.

Một điều nữa, cảm xúc cộng đồng là thứ thường chịu tác động bởi tâm lý lây lan, chúng có thể được đẩy lên ở mức cao trào trong một thời điểm nào đó, nếu không được nắm bắt, đón nhận, tạo điều kiện thúc đẩy trở thành một nhận thức đúng mức, thì tiếp theo đó sẽ là một quá trình buông xuôi, tuột dốc đến một biên độ khó ngờ.

Hãy hình dung, sẽ đáng buồn biết bao nếu chẳng ai còn muốn nghe nữa những chương trình truyền hình thời sự hàng đêm cứ phát tin tiến tới, giật lùi, đâm va của những con tàu hay chuyện những phái đoàn ngoại giao đưa vấn đề ra đấu lý ở Liên hiệp quốc, chuyện các cuộc họp báo nhắc đi nhắc lại những thông điệp mà chưa tìm thấy giải pháp nào cho tình hình thực địa?!

Tất cả tạm thời lùi đi trước những trận cầu đầy kịch tính vào lúc nửa đêm về sáng. Những phẫn nộ, và cả cảm giác chiến tranh từng ngày từng giờ đeo bám tâm trí sẽ được khỏa lấp bằng những đường bay của trái bóng.

Những người mê bóng đá cảm nhận được sự giải quyết thắng thua thực tế một cách rõ ràng ở những trận bóng. Những trận đặc biệt suốt hai hiệp chính (90 phút) rồi đến hai hiệp phụ (30 phút) nếu vẫn “khủng hoảng kéo dài”, ắt sẽ phải đi đến bằng màn đá luân lưu 11 mét. Tất cả đâu vào đó. Và qua mỗi trận đấu thì người xem rõ chiến lược, đấu pháp, lối chơi của mỗi đội. Bóng đá thú vị và dứt khoát là vậy. Bóng đá cho người ta cảm giác thắng thua trong tinh thần hòa bình là vậy.

Sẽ chẳng ai đi ủng hộ một đội bóng không rõ về lối chơi, chẳng có ai thèm xem một trận bóng mà cả hai đội có cùng chiến thuật và đấu pháp để rồi tự kéo nhau vào những cuộc khủng hoảng kéo dài không phân định thắng thua, cũng sẽ chẳng ai buồn xem những trận đấu mà cầu thủ chơi xấu công khai không phải nhận chiếc thẻ đỏ nào,... Tính “hữu nghị viển vông” chẳng đem lại đỉnh cao nào cho nghệ thuật bóng đá.

Ngoài chuyện tôn thờ nghệ thuật bóng đá muôn thuở, người ta xem World Cup lúc này để giải quyết một ức chế tâm lý, xem như một định mức khuây khỏa vừa phải trong phút chốc, giữa khi đang diễn ra một cuộc đấu trí dai dẳng về chủ quyền đất nước chưa biết rồi đây chung cuộc sẽ ra làm sao.

Càng chối bỏ Nhân quyền lòng thù hận càng tăng, nấm mồ chôn Cộng sản càng đến gần.

Càng chối bỏ Nhân quyền lòng thù hận càng tăng, nấm mồ chôn Cộng sản càng đến gần.


Bà Đầm Xòe.
Phiên họp ngày 20.6 nghe báo cáo về nhân quyền Việt Nam
Phiên họp ngày 20.6 nghe báo cáo về nhân quyền Việt Nam
Ngày 20.6.2014 tại Geneve, Thụy sĩ, trong phiên họp thông qua báo cáo Kiểm điểm Định kỳ phổ quát ( UPR) chu kỳ 2, dưới sự chủ tọa của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, Chính quyền đảng Cộng sản nhà nước Việt Nam thẳng thừng bác bỏ 45 khuyến nghị trong 227 khuyến nghị do các nước trên thế giới khuyến nghị Việt Nam thực hiện để cải thiện bức tranh nhân quyền đang nham nhở, lở loét của Việt Nam, trong đó có những vấn đề cốt lõi về quyền con người như vấn đề đa nguyên, đa đảng, về thả tù nhân chính trị, về quyền tự do ngôn luận, vấn đề bỏ điều 79, bỏ điều 88, điều 258.

TS Nguyên Quang A và phái đoàn Việt Nam không Cộng sản tại phiên họp
TS Nguyễn Quang A và phái đoàn Việt Nam không Cộng sản Việt Nam tại phiên họp
Tiễn sĩ Nguyễn Quang A và 3 người Việt Nam từ trong nước hiện đang có mặt tại phiên họp này tại Genève đã phải đau lòng rên lên:
“với 227 kiến nghị của các nước, được coi như là một cây nhân quyền sum suê đấy, có 182 lá và cành con, còn các cành lớn và thân cây – tức 45 khuyến nghị đấy, đều bị bác bỏ cả. Cái cây nhân quyền mà cành và thân cây chính mà không có, thì nó cũng héo thôi”.
Thưa TS Quang A, theo tôi, nó không chỉ có héo mà nó con gây chết cả cây nữa.
Tai sao tôi lai đoan quyết như vậy? Bởi vì đúng như TS nhận định “vấn đề đa nguyên, đa đảng, về thả tù nhân chính trị, về quyền tự do ngôn luận, vấn đề bỏ điều 79, bỏ điều 88, điều 258. Tất cả những điều cốt lõi nhất của sự vi phạm nhân quyền đều nằm trong 45 kiến nghị ấy”.
Nghĩa là Chính quyền đảng trị Cộng sản Việt Nam quyết tâm dùy trì chế độ độc tài, tiếp tục tuyên chiến với dân chủ, tự do và tiến bộ xã hội, tiếp tục ném thẳng gạch vào mặt người Việt Nam, gieo hận vào lòng mỗi con người Việt Nam; tiếp tục tạo ra hố sâu ngăn cách cho việc hòa giải dân tộc. Đó là con đường chết, không phải héo, của dân tộc đồng thời cũng là con đường chết của chính quyền độc tài Cộng sản.
Bởi vì, bác bỏ căn bản những điều cốt lõi về nhân quyền là bác bỏ quyền sống làm người của người Việt Nam. Bởi vì, suy cho cùng đàn áp của các chế độ độc tài nói chung và Cộng sản nói riêng là đàn áp về nhân quyền, cái mà người dân cần đầu tiên và cúi cùng cũng là nhân quyền. Tước đi những quyền căn bản ấy, nó tựa như cướp đi miếng cơm manh áo của con người đã bị dồn đến bước đường cùng.
Quyết tâm bác bỏ những điều cốt lõi về nhân quyền, Chính quyền Cộng sản Việt Nam đã hoàn toàn lú lẫn trước hiện thực đất nước và xu thế thời đại.
Xu thế thời đại là xu thế dân chủ, là xu thế cả thế giời đã và đang chung tay đào mồ chôn những thể chế Cộng sản cúi cùng con rơi rớt lại.
Hiện thực tại Việt Nam, những mối hận Cộng sản cũng đã bắt đầu bén cháy. Đó là những cuộc biểu tình, những hội đoan tự giác hình thành và đặc biệt có rất nhiều người dân đã vượt qua được nỗi sợ Cộng sản.
Ở miền Bắc mối hận từ Cải cách ruộng đất, cải tạo công thương, trí phú địa hào đào tận gốc, trốc tận dễ, là giết nhầm hơn bỏ sót…, là dồn nhân dân vào cái chuồng có tên hợp tác xã, là cấm chợ ngăn sống, là nhân văn giai phẩm vẫn… cũng vẫn chưa bao giờ tan.
Ở miền Nam, sau năm 1975, tất cả nhân dân miền Nam đều mang mối hận bị Cộng sản lừa. Tổng thống một ngày Dương Văn Minh, cùng cả triệu tướng tá, binh lính Việt Nam Cộng hòa cùng buông súng đầu hàng Cộng sản bới vì trong tâm họ cũng mang khát vọng thống nhất đất nước, đất nước sẽ có độc lập, có tự do, có dân chủ, có công bằng xã hội như tuyên truyền ra rả ngày đêm của những người Cộng sản Việt Nam.
Nhưng khi đất có thống nhất rồi, những người Cộng sản đã không làm những gì Cộng sản nói. Người phía bên Việt Nam Cộng hòa tự nguyện đầu hàng không nhận được bất kỳ một le lói ánh sáng của tự do, dân chủ nào mà ngược lại họ bị phân biệt đối xử, tài sản bị tịch thu, văn hóa bị thiêu rụi, hàng triệu tướng tá, binh lính, công chức của chính thể VNCH bị Cộng sản bắt, đày đạo, tù đầy, mấy vạn nguời bỏ xác trong Trại Cải tạo, đến mức ba triệu người phải liều chết vượt biên bỏ nước mà đi, trong đó có 1/6 số người đã phải bỏ xác nơi biển cả.
Không thể phủ nhận được, mối hận Cộng sản ngày một thêm chất chồng vì trong suốt gần 40 năm qua, chính quyền Cộng sản không hề có một đường hướng hay chính sách, chủ trương nào đủ độ nhằm hàn gắn vết thương chiến tranh, hòa đồng sự khác biệt tư tưởng giữa những người sống trong chế độ Việt Nam Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà những người Cộng sản còn liên tục duy trì sự phân biệt đối sử, đàn áp đã làm cho vết thương chiến trnh, sự khác biệt tư tưởng giữa người của hai chế độ ngày một thêm chồng chất, ngày một nới sâu thêm, rộng thêm hố sâu phân cách. Những người Cộng sản, đặc biệt là những người Cộng sản có chức có quyền lại vẫn luôn vêch mặt lên cười vui và làm bất kỳ điều gì họ muốn sau gần 40 năm thống nhất.
Cả dân tộc từ một niềm tin về giải phóng, về độc lập, về tự do, nay niềm tin đó đã thực sự trở thành một mối hận và từ mối hận nay đã dâng lên thành mối thù luôn âm ỉ cháy trong lòng mỗi người dân.
Hiện tại, mối hận lại được nhân lên từ nạn quan lại tham nhũng hoành hoành, một nền cai trị hành dân là chính, độc lập bị Tầu Cộng điều khiển, mất đất, mất biển, hèn với giặc, ác với dân. Phàm đã là con người ai ai cũng đã nhận ra rằng, sự chịu đựng với Cộng sản Việt Nam đã đến giới hạn không thể chịu đựng được hơn.
Không ai còn nghi nghờ rằng, những người bên thua cuộc và những người dân chủ yêu nước hiện vẫn đang cố sức hành động cho một ngày chế độ Cộng sản sụp, trong đó có không ít người mơ tưởng đến ngày trả hận như đã từng xảy ra ở các nước Cộng sản độc tài cai trị: Ruamnia, Nam Tư, Ba Lan…
Thực thi nghiêm túc và đầy đủ những quy định trong Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân quyền và các văn bản cụ thể hóa về Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền như Công ước Quốc tê về Quyền Dân sự và Chính trị, Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã Hội và Văn hóa,… sẽ là chiếc chìa khóa vàng vạn năng hóa giải từng bước trăm ngàn loại mối hận tích tụ của người dân với Cộng sản cầm quyền để rồi từ đó từng bước tiến lên thành lập một nhà nước dân chủ đa nguyên mà cảnh trả hận nồi da nấu thịt sẽ được giảm thiểu tới mức tối thiểu. Ấy mà Cộng sản cầm quyền Việt Nam khăng khăng chống lại và loại bỏ. Hành động này khác chị họ tự đào mồ chốn sống họ và định chôn sống cả dân tộc Việt Nam vào đó.
Họ ngu dốt hay cố tình ngu dốt mà không biết rằng Ngày chế độ Cộng sản Việt Nam độc tài cầm quyền sụp đổ là không thể tránh khỏi.
Thời gian cho giành cho những người Cộng sản cầm quyền sám hối, trở về với dân tộc, đi cùng thế giới văn minh không còn nhiều. Ấy thế mà họ cứ khăng khăng lú lẫn, quyết tâm đào mồ chốn sống mình và định chốn sống cả dân tộc trong cái mồ đó.
Họ có thể xuống mồ. Nhân dân Việt Nam theo họ cùng xuống mồ là không thể.
Hời những người Cộng sản cầm quyền hay cứ lú lẫn, cứ ngu đốt như vậy để mà nhận hậu quả khủng khiếp nhất định sẽ xảy ra.
BĐX